| CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM |  | 
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 16
| TÙNG PHONG (NGÔ ĐÌNH NHU) | 
Nước Việt  Nam, theo truyền thống văn hóa, nằm trong xã hội Trung Hoa và chịu ảnh  hưởng văn hóa của Tàu. Về phương diện tôn giáo, Phật giáo và Lão giáo đã  ăn sâu vào đại chúng. Nhưng, cũng như ở Trung Hoa, sự phủ nhận đời sống  hiện tại của hai giáo lý này đã được luân lý xã hội của Khổng Mạnh quân  bình. Nhờ đó mà có thể nói rằng quần chúng Việt Nam sẵn sàng tham gia  một công cuộc phát triển dân tộc. Nếu có trở lực, thì chắc chắn trở lực  không phải ở chỗ tiềm thức của dân tộc quá thiên về các giáo lý phủ nhận  đời sống, nhưng mà ở chỗ xã hội chúng ta bị tan rã, nên các tín hiệu  tập hợp không còn, dù là các tín hiệu tập hợp lấy trong giáo điều của  luân lý Khổng Mạnh. 
Sau thời kỳ Pháp thuộc, và sau một công cuộc Tây  phương hóa không có lãnh đạo, một thiểu số đáng kể đã theo Thiên Chúa  giáo. Theo sự kiện phân tích trên đây thiểu số tín đồ Thiên Chúa giáo,  sẽ đóng góp một sự tham gia tích cực vào công cuộc phát triển dân tộc.  Bởi vì, trước hết, ảnh hưởng quân bình của luân lý Khổng Mạnh đã chế bớt  rất nhiều xu hướng trốn tránh cuộc đời của những tín đồ Phật giáo. Lẽ  thứ hai là ngay trong Phật giáo cũng có hai thái độ. Thái độ xuất thế,  để tìm sự cứu rỗi cho bản thân, không phải trong đời sống này mà cho đời  sồng bên kia thế giới. Thái độ nhập thế, để tìm cách cứu độ chúng sanh  ngay trong cõi đời này. Tuy nhiên suy nghiệm theo lời nguyện của các vị  Bồ Tát, hiện thân của thái độ nhập thế, thì mục đích của sự nhập thế  này, không phải làm để giúp cho chúng sanh giải quyết các vẩn đề vật  chất ngay trong đời sống này, nhưng mà để độ chúng sanh khỏi kiếp luân  hồi, nghĩa là để thoát khỏi cuộc đời này. Như thế thì ngay trong thái độ  nhập thế đã hàm một hậu ý xuất thế. Sự kiện này làm bộc lộ một cách rõ  rệt mâu thuẫn nội tâm, về đời sống, mà chúng ta đã nói ở một đoạn trên.  Nhưng dù sao thái độ nhập thế đã là một thái độ công nhận đời sống hơn  là thái độ xuất thế. Và do đó, trong công cuộc phát triển dân tộc, thái  độ nhập thế của các vị Bồ Tát sẽ thích hợp với nhu cầu quốc gia hơn.  Nhưng sự kém sống mạnh, có thể dẫn dắt đến một sự tham gia thiếu tích  cực vào công cuộc phát triển dân tộc, của các tín đồ Phật giáo, vẫn nằm ở  mâu thuẫn nguyên lai, phủ nhận đời sống hiện tại, của giáo lý nhà Phật.  
Hai cơ hội phát triển 
Trong các giai đoạn trên chúng ta nhiều lần nói đến hai cơ hội phát triển cho các quốc gia thuộc xã hội Đông Á. 
Dưới đây chúng ta sẽ tìm xem: 
* Như thế nào là một cơ hội phát triển. 
* Và hoàn cảnh nào tạo ra cơ hội phát triển. 
Xét  lại lịch sử các cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa đã  thành công như trường hợp của Nhật, của Nga, đã phân nửa thành công như  của Thổ Nhĩ Kỳ, sở dĩ các công cuộc đó thực hiện được là vì có một sự  đồng thời hiếm có của hai loại sự kiện. Loại thứ nhất, liên hệ đến tình  trạng nội bộ của mỗi quốc gia, có thể gọi là sự kiện chủ quan. 
Loại  thứ hai, liên hệ đến hoàn cảnh bên ngoài, do tình trạng chính trị của  thế giới lúc bấy giờ tạo ra, và có thể gọi là sự kiện khách quan. 
Trong  số các sự kiện chủ quan, các đoạn trên đây đã cho chúng ta thấy rằng có  hai sự kiện quan hệ nhất. Trước hết là sự có mặt, trong những giờ phút  nghiêm trọng, và tại các giềng mối của bộ máy quốc gia, của những lãnh  đạo, đủ sáng suốt, để nhận thức sự cần thiết của công cuộc Tây phương  hóa để phát triển dân tộc. Điều thứ hai là dân chúng có một tâm trạng  sẵn sàng hưởng ứng công cuộc Tây phương hóa do người lãnh đạo đề xướng. 
Các  điều kiện khách quan lại thuộc về một loại cụ thể hơn. Như chúng ta đã  thấy trên đây, công cuộc Tây phương hóa đòi hỏi rất nhiều kỹ thuật, vì,  chính trọng tâm của công cuộc Tây phương hóa là hấp thụ những kỹ thuật  và khoa học Tây phương. Nhưng ngoài kỹ thuật ra, công cuộc Tây phương  hóa còn đòi hỏi rất nhiều vốn để xây dựng các kỹ nghệ căn bản làm cơ sở  phát triển cho các kỹ nghệ sản xuất, rất nhiều vốn để trang bị các cơ sở  chính trị, quân sự, văn hóa và xã hội, trong khi các lợi tức của quốc  gia chưa thỏa mãn được nhu cầu của dân tộc. 
Kỹ thuật phải hoàn toàn ở  ngoài đưa vào, đại đa số vốn phải ở ngoài đưa vào. Điều kiện khách quan  được thỏa mãn, khi nào tình hình chính trị thế giới tạo một hoàn cảnh  thuận tiện để cho kỹ thuật và vốn được đưa vào để giúp cho công cuộc Tây  phương hóa. 
Như vậy thì, cơ hội đối với các nước đang tìm phát  triển, như chúng ta ngày nay, là khi nào hoàn cảnh bên ngoài, thuận tiện  đế cho kỹ thuật và vốn được đưa vào. Nắm được cơ hội hay không là do  hai điều kiện nội bộ, như trên vừa kể ra. 
Cơ hội thứ nhất 
Vào  khoảng các năm 30 của thế kỷ 19, sự phát triển và bành trướng của cường  quốc Âu châu đã lên đến một mức độ tối cao. Trong nội bộ, những phát  minh mới về khoa học và kỹ thuật đã tạo cho các quốc gia trong xã hội  Tây phương một sự tự tin dũng mãnh. Tín ngưỡng Gia Tô giáo đã hướng dẫn  công cuộc chinh phục thế giới của văn minh Tây phương trong năm thế kỷ  vừa qua. Sau đó, nhiều phát minh của khoa học lại tạo cho xã hội Tây  phương một sinh lực mới, có phần dồi dào hơn sinh lực cũ do tín ngưỡng  đã hun đúc trong nhiều thế kỷ. Trên phương diện thực tế, những thực hiện  kỹ nghệ và kỹ thuật đã đặt trong tay các cường quốc Tây phương những  khí giới chiến đấu có một sức mạnh chưa bao giờ thấy. 
Dưới sự thúc  đẩy của các sự kiện trên, và, sau khi củng cố địa vị ở đại lục Ấn Độ và  các quần đảo Nam Dương và Phi Luật Tân, bao vây các quốc gia thuộc xã  hội Đông Á, các cường quốc Tây phương bắt đầu tấn công ngay vào các quốc  gia này. Năm 1842 người Anh gây chiến tranh Nha Phiến ở Trung Hoa và mở  màn cho một cuộc tổng tấn công vào xã hội Đông Á. Sự dùng võ lực để mở  hải cảng Uraga của Nhật năm 1853 của Đại tá Hải quân Mỹ Perry và cuộc  pháo kích Đà Nẵng năm 1856 của chiến thuyền Catinat của Pháp đều là  những sự kiện đồng thời và do một nguyên nhân sanh ra. 
Đứng trước  mới nguy cơ chung, các quốc gia, thuộc xã hội Đông Á, có những phản ứng  tự vệ khác nhau, như chúng ta đã biết. Nguy cơ tuy lớn lao thật, nhưng,  đồng thời, lại là một cơ hội để Tây phương hóa, phát triển dân tộc. Bởi  vì, sự bành trướng mạnh mẽ của hai Đế quốc Anh và Pháp, vừa là một nguồn  mâu thuẫn giữa, một bên, hai đế quốc lớn, một bên, các quốc gia khác ở  Tây phương. Thêm vào đó, nước Mỹ, vừa chấn chỉnh xong nội bộ quốc gia,  cũng bắt đầu gấm ghé thực hiện ý định có mặt ở Thái Bình Dương. 
Mâu thuẫn tạo cơ hội 
Tất  cả các mâu thuẫn chằng chịt đó là cơ hội cho các quốc gia bị tấn công,  để Tây phương hóa, phát triển dân tộc và bảo vệ chủ quyền của mình.  Những mâu thuẫn trên đã tạo ra một hoàn cảnh chính trị thế giới, làm cho  công cuộc xâm lăng, chiếm đóng thật sự trở thành một việc vô cùng khó  khăn, và vạn bất đắc dĩ. Nếu bây giờ, sự lãnh đạo quốc gia được phần nào  sáng suốt và hàng ngũ xã hội được bền chặt, thì, đương nhiên các mâu  thuẫn trên đã trở thành những đồng minh, giúp cho các nước bị tấn công,  bảo tồn sự độc lập của mình. Hơn thế nữa, các mâu thuẫn trên, nghĩa là  sự tranh giành ảnh hưởng giữa các đê quốc, sẽ mang lại kỹ thuật và vốn  tư bản, để cho các nước bị tấn công thực hiện công cuộc phát triển dân  tộc của mình. 
Cơ hội đã như vậy đó, nhưng, trong các quốc gia bị tấn  công, chỉ có Nhật Bản là có đủ điều kiện chủ quan để nắm cơ hội do các  điều kiện khách quan đưa đến. Sự thành công của các nhà lãnh đạo Nhật  Bản như thế nào, tất cả chúng ta đều biết. 
Điều kiện chủ quan của  quốc gia Trung Hoa, lúc bấy giờ, không có, bởi vì, người cầm quyền lại  thuộc một dân tộc ngoại lai, mà người Trung Hoa oán ghét. Chẳng những  thế, với thời gian, lịch sử còn chứng minh sự thiếu sáng suốt của các  nhà lãnh đạo Mãn Thanh lúc bấy giờ. Tuy nhiên, những mâu thuẫn nội bộ  giữa các cường quốc Tây phương cũng đã, đương nhiên, bảo vệ độc lập, ít  ra, trên danh từ, cho Trung Hoa và tránh cho quốc gia này một sự thống  trị trực tiếp như Việt Nam. Nhưng Trung Hoa cũng đã bỏ lỡ cơ hội thứ  nhất để phát triển. 
Hoàn cảnh nội bộ của Việt Nam lại càng bi đát hơn nữa. 
Sau  một cuộc nội chiến, tàn khốc và tiêu hao, kéo dài từ năm 1620 đến năm  1802, nhà Nguyễn vừa thống nhất quốc gia được bốn mươi năm, thì họa xâm  lăng Tây phương lại ồ ạt kéo đến. Những điều kiện chủ quan, như trên đã  trình bày, quốc gia Việt Nam hoàn toàn không có. Nhân tâm còn ly tán,  chính trị của nhà Nguyễn không thâu phục được lòng dân, nội loạn không  lúc nào dứt. Các nhà lãnh đạo của chúng ta, lại không kịp thời nhận thức  vấn đề của dân tộc, trong một giai đoạn quyết liệt. Các tài liệu lịch  sử về sự lãnh đạo quốc gia, trong thời kỳ này còn giữ lại, không thấy đề  cập đến vấn đề Tây phương hóa. Nhiều nhân vật có để lại những bản sớ,  nói về tính cách cần thiết của sự thu thập kỹ thuật Tây phương, nhưng  không thấy đề cập đến một công cuộc Tây phương hóa, như người Nhật quan  niệm lúc bấy giờ. Chính những chương trình do ông Nguyễn Trường Tộ đề  nghị mặc dù có những kiến thức rất tiến bộ và sáng suốt, cũng vẫn là một  chủ trương cải cách nhút nhát. Nếu có mang ra mà thi hành, thì có lẽ,  cũng chỉ dẫn dắt đến một cuộc Tây phương hóa thất bại mà thôi, vì điều  kiện chủ quan hoàn toàn không rõ rệt và rất sơ sài. 
Hơn nữa, các tài  liệu lịch sử, trong giai đoạn quyết liệt này, không thấy có ý thức gì  về các mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương. Trong khi đó, chính các  mâu thuẫn này là lợi khí sắc bén nhất, trong cơ hội đưa đến cho chúng  ta. Vì thế cho nên, ví dầu mà chương trình của Nguyễn Trường Tộ có đem  ra thực hiện, thì tính cách ấu trĩ của thuật ngoại giao của chúng ta,  lúc bấy giờ, cũng không cho phép chúng ta thực hiện được công cuộc phát  triển dân tộc. Xem thế, chúng ta càng nhận thấy kiến thức hẹp hòi của  các nhà lãnh đạo lúc bấy giờ, và quan niệm chưa trưởng thành của họ về  việc lãnh đạo quốc gia. 
Các sự kiện trên càng. làm bộc lộ rõ rệt  quan niệm, Việt Nam là một thuộc quốc đối với Trung Hoa, của các nhà  lãnh đạo lúc bấy giờ. Sự thiếu sót về ngoại giao trên đây, do một quan  niệm thấp và hẹp về ý thức độc lập, là nguyên nhân chính làm cho chúng  ta không lợi dụng được các mâu thuẫn, giữa các cường quốc Tây phương, để  bảo vệ độc lập và chủ quyền cho dân tộc. Trong khi đó Thái Lan, lúc bấy  giờ là Xiêm, mặc dầu không thực hiện được cuộc phát triển dân tộc nhưng  ít ra, cũng cứu vãn được độc lập bằng cách khai thác các mâu thuẫn giữa  các cường quốc. 
Cơ hội thứ nhất đã lỡ, hậu quả của sự lỡ cơ hội tai  hại như thế nào, dân tộc chúng ta đã ghi vào xương máu bài học kinh  nghiệm đắt giá đó. Nhưng, giá hết sức cao mà chúng ta đã phải trả, để  mua kinh nghiệm lỡ cơ hội lần thứ nhất, có đủ để làm cho các nhà lãnh  đạo, đương thời của chúng ta, nhận thức sự cần thiết phải vận dụng hết  nô lực để nắm cho được cơ hội thứ hai, đang đến với chúng ta, để phát  triển dân tộc không? 
Cơ hội thứ nhất đến ngay vào lúc những mâu thuẫn giữa các quốc gia Tây phương đi vào một giai đoạn rất gây cấn. 
Sự  tranh giành ảnh hưởng đã đến một trình độ hết sức căng thẳng giữa các  đế quốc Anh, Pháp, Đức và Nga. Các yếu tố quân bình, trong khung cảnh  chính trị cổ truyền của âu châu, được mang áp dụng giữa các cường quốc  đi chinh phục. Hòa ước Bắc Kinh, ký kết năm 1861 giữa Trung Hoa và các  cường quốc chiến thắng, là một tài liệu thừa nhận sự phân chia nước Tàu  làm nhiều vùng ảnh hưởng giữa các đế quốc. 
Nhưng, đồng thời và trước hết, đó là một tài liệu chứng tỏ sự cạnh tranh quyết liệt giữa các cường quốc Tây phương. 
Tuy  nhiên, với sự biến chuyển của tình hình chính trị, các mâu thuẫn có thể  tạm thời dẹp một bên bằng những thỏa hiệp. Đối với các quốc gia bị Tây  phương tấn công, đó là lúc mà cơ hội mất. Riêng đối với Việt Nam thì cơ  hội đã mất, ngay khi chủ quyền đã mất. 
Cơ hội thứ hai 
Gần  một thế kỷ sau, mâu thuẫn nội bộ giữa các cường quốc Tây phương lại bộc  phát lên một cách dữ dội và dẫn dắt đến hai cuộc thế giới chiến tranh  mà chúng ta đều biết. 
Chiến tranh chưa chấm dút, sự tranh chấp, giữa  hai quốc gia đã chiến thắng trong trận thế chiến thứ hai, nay lãnh đạo  hai khối chính trị trên thế giới, đã tạo ra cho các quốc gia, bị Tây  phương xâm chiếm một cơ hội duy nhất để tranh giành độc lập và phát  triển dân tộc. Sự tranh chấp giữa Nga Sô và khối Tây phương ngày nay, là  hiện trạng của một cuộc tranh đấu không ngừng đã diễn ra từ hơn bốn  trăm năm nay. Lúc gay cấn đến xảy ra chiên tranh, lúc ngấm ngầm, khi bên  này thắng, bên kia thua, cuộc tranh đấu không bao giờ ngừng vì những lý  do mà chúng ta đã tìm hiểu trong nhiều đoạn ở trên. 
Sở dĩ mà ngày  nay, cuộc tranh chấp trở thành vĩ đại và bao trùm hết thế giới và mọi  lĩnh vực của đời sống, là vì, như chúng ta đã thấy trong các chương đầu  của tập này, lúc mở màn cho giai đoạn hiện tại, vị trí của hai bên như  sau đây: 
Tây phương, lúc bấy giờ, chiếm gần hết thê giới. Thuộc địa của những đế quốc Tây phương nằm khắp năm đại lục. 
Lực  lượng quân sự của Tây phương đóng giữ các vị trí chiến lược hiểm trở  trên địa cầu. Chiến thuyền của Tây phương tung hoành, rẽ sóng bốn biển.  Lưới kinh tế của Tây phương bủa vây thế giới. 
Đối với một địch thủ,  nắm trong tay một lực lượng kinh khủng như vậy, nếu Nga Sô tiếp tục  chiến đấu theo quan niệm cổ truyền, và đóng khung nỗ lực của mình trong  giới hạn lãnh thổ Nga, thì chắc chắn đã nắm phần bại về mình, ngay từ  lúc chưa ra quân. Bởi vì, một chiến lược như thế có nghĩa là Nga Sô sẽ  bị Tây phương siết chết trong một vòng vây không lối thoát. Các nhà lãnh  đạo Nga Sô, ngay khi cách mạng tháng Mười ở Mạc Tư Khoa chưa bùng nổ,  đã đủ sáng suốt để nhận thức rằng, muốn tiếp tục công cuộc chiến đấu của  dân tộc một cách thắng lợi, điều kiện tiên quyết, là phải đưa chiến  lược lên một lãnh vực bao trùm khắp thế giới, bởi vì địch thủ đã áp dụng  một chiến lược bao quát như vậy. 
Ngày nay cuộc chiến đấu vĩ đại  vượt lên cả không gian, và lâm le thâu gồm vào vòng chiến lược các hành  tinh của Thái Dương hệ, cũng vì lẽ, không một địch thủ nào muốn để cho  bên kia bao vây mình. 
Trở lại lúc đầu giai đoạn hiện tại của cuộc  chiến đấu giữa Nga Sô và Tây phương, sở dĩ Nga Sô, lúc bấy giờ, quan  niệm và thực hiện được một chiến lược minh mông, như nói trên, là nhờ ở  những điều kiện dưới đây: 
Mâu thuẫn nội bộ 
Trước  hết những mâu thuẫn nội bộ giữa các đế quốc Tây phương lúc nào cũng có.  Chính những mâu thuẫn này, trong những giai đoạn khủng hoảng, đã gây ra  hai cuộc thế giới chiến tranh vừa qua. 
Thuyết Các-mác Lê-nin lúc  nào cũng nhắc đến các mâu thuẫn này và xem đó là đặc tính của xã hội tư  bản. Và theo thuyết ấy, chính các mâu thuẫn đó sẽ đưa xã hội tư bản đến  chỗ chết. Nếu chúng ta đồng ý với thuyết trên, về sự có mặt của các mâu  thuẫn nội bộ nói đây trong xã hội tư bản, thì, chúng ta lại nên thêm  rằng, những mâu thuẫn nội bộ tương tự sẽ có, không cứ gì trong xã hội tư  bản, mà, bất cứ trong xã hội nào gồm nhiều phần tử mà quyền lợi bất  đồng. Ngày nay, chúng ta đang mục kích nhiều mâu thuẫn nội bộ trong khối  Cộng Sản. Nhưng lý do, phát sinh những mâu thuẫn này, cũng tương tự và  đương nhiên, như những lý do, phát sinh những mâu thuẫn, đang nói trên  kia, trong xã hội Tây phương. Tuy nhiên, sự kiện, các mâu thuẫn này, có  phải hay không phải là đặc tính của xã hội tư bản, không quan hệ. 
Điều quan hệ là sự có mặt của các mâu thuẫn ấy. 
Nội tuyến 
Điều  kiện thứ hai là trong thời kỳ, cuối thế kỷ 18 sang đầu thế kỷ 19, xã  hội Tây phương trải qua một cuộc khủng hoảng vô cùng trầm trọng, do  chính các phát minh khoa học và kỹ nghệ gây ra. Các phát minh khoa học  và kỹ nghệ là những lực lượng sản xuất mới, đã được đưa vào và áp dụng,  một cách quá đột ngột, trong một xã hội chưa sẵn sàng để đón nó, vì các  cơ cấu vẫn còn giữ một lối tổ chức, theo nề nếp cũ, của một xã hội thủ  công nghiệp. Bất cứ xã hội nào, trong hoàn cảnh đó, cũng bị một cuộc  khủng hoảng như vậy. 
Sự kiện này đã mang đến sự ly khai giữa các  quần chúng và các nhà lãnh đạo trong xã hội Tây phương, vì những hậu quả  mà chúng ta không cần biết chi tiết ở đây, của các phát minh nói trên.  Cuộc khủng hoảng trầm trọng đến nỗi, tất cả tầng lớp xã hội đều bị ảnh  hưởng của cuộc chấn động. Và nhiều nhà triết học đã phải nghĩ đến một  cuộc cải cách xã hội toàn diện, để cho các cơ cấu ăn khớp với những lực  lượng sản xuất mới. Trong số đó, Engels, và Karl Marx là danh tiếng hơn  cả. Như vậy, chúng ta thấy rõ rằng, lý thuyết Các-Mác, trước tiên là một  phương thuốc do một số người Tây phương đề nghị, để chữa bệnh cho xã  hội Tây phương, trong một cơn khủng hoảng. 
Vì lý do nào mà thuyết ấy  trở thành căn bản tư tưởng chiến đấu của Nga Sô, một quốc gia đang dấn  thân vào một cuộc chiến đấu sống chết với Tây phương? 
Trước hết các  nhà lãnh đạo Cộng Sản nhận thức rằng tình trạng của xã hội Tây phương,  lúc bấy giờ, sẽ là tình trạng, có lẽ, dưới một hình thức còn trầm trọng  hơn, của xã hội họ, một khi, trong khuôn khổ công cuộc Tây phương hóa mà  họ đang chủ trương, họ sẽ đưa vào xã hội Nga Sô các lực lượng sản xuất  mới, vừa nói trên kia. Như thế thì, thái độ hợp lý không phải là thâu  nhận ngay, và trước cả Tây phương, những tư tưởng và phương pháp xây  dựng một xã hội thích hợp với các lực lượng sản xuất mới do khoa học  phát minh sao? Bởi vì, như thế, thì Nga sẽ chắc chắn đi trước và thắng  Tây phương. 
Trên đây là một lý do xây dựng cho xã hội Nga Sô. 
Nhưng còn một lý do khác, thuộc lãnh vực chiến thuật, trong cuộc chiến đấu với Tây phương. Lý do nào đã nặng hơn? 
Điều  đó khó mà biết được. Chỉ biết rằng cả hai lý do đều có, nếu chúng ta  nhận xét ở các diễn biến, tiếp theo sau, của cuộc chiến đấu. 
Đang  lúc xã hội Tây phương có sự rạn nứt giữa cấp lãnh đạo và quần chúng, tạo  ra một tình trạng thuận lợi để cho cách mạng bùng nổ, thì bất cứ người  nào chủ trương một lý thuyết, mang nhiều hứa hẹn tương lai cho đời sống  của quần chúng Tây phương, chắc chắn sẽ được quần chúng Tây phương hưởng  ứng. Nếu người chủ trương là Nga Sô thì, quần chúng Tây phương, một khi  đã hưởng ứng, sẽ biến thành một khối đồng minh vô giá, của Nga Sô ở  ngay trong lòng kẻ địch của họ. Thật là một mưu tính thâm và cao. 
Do  hai lý do vừa kể trên, thuyết Cộng Sản, một sản phẩm của Tây phương, đã  đương nhiên biến thành một lợi khí, trong tay của Nga Sô, để đánh lại  Tây phương trên hai mặt, trong và ngoài. 
Thuyết Cộng Sản có thích  nghi cho một xã hội kỹ nghệ hóa hay không? Chúng ta khó trả lời câu hỏi  này mà khỏi lọt vào một cuộc luận chiến trường kỳ vô tận, cũng như mỗi  khi chúng ta đặt cuộc tranh luận vào lĩnh vực triết lý. Nhưng một điều  mà chúng ta có thể làm được, với những thực tế của lịch sử làm căn bản  là xem xã hội Tây phương đã vượt qua những giai đoạn nào, sau khi đã từ  chối thuyết Cộng Sản. 
Dầu sao, tính toán chiến thuật của các nhà  lãnh đạo Nga Sô, như trên đây đã trình bày, thật sự, đã mang đến cho họ,  những kết quả ngoài sự mong mỏi. Sau khi Nga Sô đã tuyên bố tự nhận  mình là thành trì của thuyết Các-mác, là quốc gia lãnh đạo cuộc cách  mạng xây dựng xã hội Cộng Sản, tất cả các đảng Cộng Sản, ở các quốc gia  Tây phương, đương nhiên, biến thành những đồng minh chiến đấu của Nga  Sô. 
Hơn thế nữa, quần chúng Tây phương, đang chống đối với các thiểu  số lãnh đạo của mình, cũng hướng về Nga Sô như hướng về một người giải  phóng. Do đó, nước Nga, với những vũ khí vật chất và trong thời kỳ cực  thịnh của họ về kỹ thuật, chưa bao giờ đã gây được trong xã hội Tây  phương những chấn động kinh khủng, như lúc bấy giờ, với một vũ khí tinh  thần và trong một thời kỳ kém hẳn Tây phương về kỹ thuật và khoa học. 
Tuy  nhiên, các nhà lãnh đạo Tây phương đã đủ già tay ấn để dẫn dắt xã hội  Tây phương vượt qua được các cơn sóng gió. Sự phát triển, vẫn hùng mạnh,  trong xã hội Tây phương hiện nay, chứng minh rằng xã hội này, đã vượt  qua cơn khủng hoảng và đã xây dựng được những cơ cấu xã hội thích nghi  với các lực lượng sản xuất mới, mà không cần phải áp dụng phương thuốc  Cộng Sản. Như vậy, chúng ta không cần phải thảo luận về tính cách, thích  nghi hay không, của một xã hội Cộng Sản đối với các lực lượng sản xuất  kỹ nghệ và đối với một khoa học kỹ thuật tiến bộ. Chúng ta chỉ cần nhận  xét rằng, trong thực tế, đã có một hình thức xã hội khác thích nghi, một  cách hữu hiệu, với các lực lượng đó. 
Và chính từ lúc Tây phương đã  tìm được các phương thuốc xã hội, khác hơn những phương thuốc Cộng Sản,  để chữa cơn khủng hoảng nội bộ của mình, thì, từ lúc đó, thuyết Cộng Sản  đã thấy hấp lực của mình, ngày càng suy giảm đối với quần chúng Tây  phương. Đấy là nguyên do chính của sự khủng hoảng nội bộ của các đảng  Cộng Sản Tây phương hiện nay. Thuyết Cộng Sản không còn lý do tồn tại  nữa, trong một xã hội đã được lành mạnh hóa, và đã được cải tạo theo một  chiều hướng thích nghi với các lực lượng sản xuất đã gây ra cuộc khủng  hoảng. Và ngày nay, điều này rất đỗi quan hệ cho chúng ta, sự bang giao  giữa Nga Sô và các cường quốc Tây phương không còn đặt trên lĩnh vực lý  thuyết nữa, như trước đây ba mươi năm. Sự bang giao này chỉ là một sự  bang giao thông thường đặt trên những mâu thuẫn của các cường quốc với  nhau. 
Hợp tung. 
Bây giờ chúng ta  đến điều kiện thứ ba đã giúp cho Nga Sô thành công trong việc quan niệm  và áp dụng một chiến lược thế giới để đương đầu với khối Tây phương đang  ngự trị hoàn cầu. 
Chính vì Tây phương đã chiếm gần hết thế giới,  nên khắp thế giới, chỗ nào Tây phương cũng có kẻ thù. Vì thế cho nên,  hợp tung tất cả kẻ thù của Tây phương vào trong một mặt trận, bao phủ  địa cầu sẽ tăng cường hiệu quả của chiến lược của các nhà lãnh đạo Nga  Sô. Một mặt khác, các lãnh tụ các quốc gia bị xâm chiếm, sau nhiều năm  chiến đấu vô hiệu quả, và nhiều phen thất bại đau đớn, cũng đã lần lần  nhận thấy rằng muốn chiến thắng một kẻ thù, mà nanh vuốt bao trùm khắp  thế giới, thì một cuộc chiến đấu, giới hạn trong khuôn khổ một quốc gia,  không làm sao đưa đến kết quả được Vì lý do này, mà lời kêu gọi Đồng  Minh của Nga Sô để chống kẻ thù chung, là Tây phương, được rất nhiều nhà  lãnh đạo quốc gia hưởng ứng, một cách thành thật và nồng nhiệt. Hầu hết  các nhà lãnh đạo các quốc gia bị Tây phương xâm chiếm đều qui tụ dưới  lá cờ Cộng Sản của Nga Sô. Chỉ có một số nhà lãnh đạo sáng suốt, đã soi  thấu thâm ý chiến lược của Nga Sô, mới từ chối lời kêu gọi đồng minh của  Nga. Trong sô này, có Gandhi và Nehru của Ấn Độ. 
Chúng ta vừa thấy,  do đường ngõ nào, mà lý tưởng tranh đấu Cộng Sản đã chuyển từ Nga Sô  sang các quốc gia đã bị thuộc địa hóa, nhất là các thuộc địa ở Á châu.  Bởi vì trong số các thuộc địa, các quốc gia này là những quốc gia đã có  một nền văn minh cổ truyền, một cơ cấu xã hội vững chãi, khả dĩ huy động  một sức đề kháng đáng kế, đối với Tây phương. Vì vậy mà Cộng Sản quốc  tế đặc biệt chú trọng đến Á Châu. Chúng ta cũng vừa thấy cơ thức, theo  đó, lý tưởng tranh đấu Cộng Sản, mà mục đích nguyên thủy là một cuộc  cách mạng xã hội tại Tây phương, để xây dựng một trật tự mới thích hợp  với các lực lượng sản xuất do những phát minh khoa học tạo ra, sang Nga,  đã biến thành một lợi khí vừa để lũng đoạn nội bộ Tây phương vừa để  phát triển dân tộc, và sang Á Đông, biến thành một lợi khí tranh đấu để  giải phóng các dân tộc bị đế quốc thống trị. Khác với các tác phẩm của  Các-mác, các tác phẩm của Lê-nin đề cập nhiều đến các thuộc địa của đế  quốc, nhất là các thuộc địa Á châu, vì những lý do trên đây. 
Sự đồng  minh giữa các nhà lãnh đạo Nga Sô và các nhà lãnh đạo Á Đông, không vì  sự khác biệt giữa hai mục đích, mỗi bên đang riêng theo đuổi, mà kém  chặt chẽ và kém hiệu quả. Bởi vì lý do phát sinh và tồn tại của sự liên  kết là chống Tây phương, kẻ thù chung. 
Các nhà lãnh đạo Á Đông còn  bị lôi cuốn vào cuộc đồng minh bởi một lý do thứ hai. Lý thuyết Các-mác  đem đến cho các nhà lãnh đạo này một kiểu mẫu xã hội tiền chế mệnh danh  là một xã hội thích nghi với lực lượng sản xuất mới do khoa học đẻ ra.  Chính vì lý do này, một phần mà các nhà lãnh đạo Nga Sô đã thâu nhận một  lý thuyết Tây phương làm một lý thuyết tranh đấu cho dân tộc Nga. 
Trên  kia chúng ta đã nêu câu hỏi: kiếu mẫu xã hội tiền chế đó có thật thích  nghi với các lực lượng mới không? Và chúng ta đã từ chối không trả lời,  chỉ nhận xét rằng, trong thực tế, đã có một hình thức xã hội khác thích  nghi, một cách hiệu quả, với các lực lượng đó. Hình thức nào thích nghi  hơn? Còn lâu lắm các sử gia mới trả lời được. Chỉ biết rằng hình thức xã  hội Cộng Sản không thể giữ độc quyền tổ chức nhân loại. Và chỉ biết  rằng hình thức xã hội Cộng Sản chưa hoàn thành và còn trong thời kỳ mò  mẫm xây dựng. Trái lại, hình thức xã hội Tây phương cải tạo, đã thành  hình và đang phát triển hùng mạnh. 
Cũng trong phạm vi này, một nhận  xét khác rất quan hệ cho chúng ta vì nó làm cho vấn đề thêm sáng tỏ. Các  quốc gia, đã và đang, tìm phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa,  trong đó có cả Nga Sô, và Trung Cộng, đều, đã và đang nỗ lực thâu thập  kỹ thuật Tây phương. Như thế thì, trong lĩnh vực kỹ thuật tổ chức xã  hội, cũng như trong tất cả mọi lĩnh vực kỹ thuật, nếu cần phải học hỏi,  thì đương nhiên là nên học hỏi trực tiếp với Tây phương, hơn là học hỏi  với những người, đã và đang, học hỏi với Tây phương. Như thế, ngoài sự  từ chối không làm học trò hạng nhì, chắc chắn chúng ta còn tránh được  nhiều lỗi lầm của người học trò hạng nhất, ví dụ như “cái nhảy vượt bậc”  và “phong trào nhân dân công xã” của các nhà lãnh đạo Trung Cộng. 
Với  thời gian qua, và nhờ ánh sáng của những sự kiện lịch sử đã xảy ra, từ  lúc mới chớm nở cuộc Đồng Minh, giữa Nga Sô và các quốc gia bị thuộc địa  hóa, đến ngày nay, chúng ta có thể có hai nhận xét căn bản, có ảnh  hưởng nhiều đến đường lối của dân tộc sau này. 
Hai nhận xét 
Trước  hết, mục đích giải phóng dân tộc, và hoàn cảnh bi đát của các phong  trào kháng chiến quốc gia lúc bấy giờ, có thể để thuyết minh cho sự liên  kết với Nga Sô của các. lãnh tụ Á Đông. Mạnh hơn nữa, chúng ta có thể  quả quyết rằng con đường liên kết với các lãnh tụ Nga Sô, lúc bấy giờ,  là con đường có nhiều bảo đảm trong giai đoạn tranh giành độc lập cho  dân tộc. Nhưng, chúng ta cũng không nên quên rằng, có nhiều nhà lãnh  đạo, nhìn thấu thâm ý chiến lược của Nga Sô, như Gandhi và Nehru, đã từ  chối sự liên kết trên, nhưng vẫn đạt đến kết quả giải phóng dân tộc của  họ. Và, một chủ trương đã đúng trong một giai đoạn, không phải vì đó, mà  sẽ đúng trong tất cả các giai đoạn. Nghĩa là, sau khi độc lập đã khôi  phục, dân tộc chuyển sang giai đoạn phát triển, bằng cách Tây phương hóa  toàn diện, chính sách Cộng Sản, nghĩa là đường lối và phương pháp Cộng  Sản có còn thích hợp không? 
Nếu có những nước, như Nga Sô, đã thực  hiện được công cuộc phát triển bằng đường lối Cộng Sản, thì cũng có  những nước, như Nhật Bản, thực hiện được công cuộc phát triển, với một  trình độ không kém, bằng một đường lối không Cộng Sản. Chúng ta, sau  này, sẽ bàn đến sự thích nghi hay không của đường lối Cộng Sản trong  giai đoạn phát triển dân tộc của chúng ta. Nay chỉ cần ghi nhớ một điểm  là, ít ra cũng có một đường lối khác để phát triển dân tộc, không kém  hiệu quả hơn đường lối Cộng Sản. 
Có thể có người nói rằng, nếu Việt  Nam không theo đường lối Cộng Sản thì Trung Cộng đã không giúp cho  phương tiện để chiến thắng ở Điện Biên Phủ. Về sự viện trợ của ngoại  quốc, chúng ta sẽ đề cập đến một cách chi tiết dưới đây Nay, giải đáp  thắc mắc trên đây chúng ta có thể nói rằng thời kỳ Điện Biên Phủ vẫn còn  nằm trong giai đoạn tranh giành độc lập. Vả lại Trung Cộng giúp khí  giới, kỹ thuật và phương tiện cho Việt Nam chiến thắng vì Trung Cộng  thân Việt Nam hơn là bài Mỹ hay là bài Mỹ hơn thân Việt Nam? Và khi viện  trợ như vậy, Trung Cộng xem Việt Nam là một đồng chí Cộng Sản hay là  một phần đất cũ xưa kia, và nay sắp sửa được gồm thâu vào lãnh thổ của  họ? 
Nhận xét căn bản thứ hai là như sau đây. 
Trong cuộc đồng  minh giữa Nga Sô và các quốc gia Á Đông bị Tây phương thống trị, Nga Sô  theo đuổi trước hết và trên hết mục đích phát triển dân tộc của mình.  Trong khi đó các quốc gia Á Đông lại theo đuổi trước hết và trên hết mục  đích giải phóng dân tộc thoái khỏi ách để quốc thực dân. 
Sự khác  biệt mục đích này đã đưa đến hai hậu quả đương nhiên. Khi nào có những  biến cố xảy ra cho các đảng Cộng Sản bạn, làm cho những đảng này cần sự  giúp đỡ sẽ không đến. Trường hợp này đã xảy ra rất nhiều lần, và thái độ  của Staline đối với đảng Cộng Sản Trung Hoa trong thời kỳ bỉ cực là rõ  rệt hơn cả. Bởi thế cho nên, mặc dầu có một cuộc liên minh, quốc tế và  trên lý tưởng, vì kẻ thù chung, nhưng quyền lợi của dân tộc là trên hết.  Điều này chúng ta nên khắc sâu vào tâm não. 
Hậu quả thứ hai là, khi  nào một bên đã đạt được mục đích rồi, thời sự đồng minh không còn lý do  tồn tại nữa, trừ ra nếu có những lý do chính trị do hoàn cảnh đương  thời tạo nên. Ngày nay, Nga đã đạt được mục đích phát triển dân tộc, thì  lý do của cuộc đồng minh, đối với Nga, đã giảm giá đi rất nhiều. Nếu  Nga còn thấy cần đồng minh nữa, thì cũng chỉ vì cuộc chiến đấu cổ truyền  với Tây phương vẫn tiếp tục, chớ không phải vì một lý tưởng. Ngày nào  cuộc tranh đấu này đi vào một thời kỳ êm dịu, như chúng ta sẽ thấy dưới  đây, thì lý do đồng minh, đối với Nga, sẽ không còn nữa. 
Những sự  kiện trên đây giải thích một phần rất lớn, vừa những mâu thuẫn xảy ra  giữa Nga và các đảng Cộng Sản Á châu, vừa những sự xung đột giữa Nga và  Trung Cộng. 
Như vậy là chúng ta đã xét qua ba điều kiện đã giúp cho  Nga Sô chuyển cuộc tranh đấu cổ truyền với Tây phương trong phạm vi quốc  gia, thành một cuộc tranh đấu vĩ đại, trong đó Nga Sô đã huy động được,  vừa lớp người bất mãn, trong nội bộ của Tây phương, vừa kẻ thù, khắp  thế giới, của Tây phương để nỗ lực đánh bại Tây phương. 
Và Tây phương suýt bị đánh bại thật. 
Nếu  trong trận đại chiến thử hai vừa qua, mà Nga Sô, vì một lẽ gì, đứng   được ngoài cuộc chiến tranh, thì, ngày nay cuộc diện thế giới đã chuyển  theo một chiều khác vô cùng thắng lợi cho Nga Sô. Đại chiến thứ hai cũng  như đại chiến thứ nhất, trước tiên, là cuộc chiến tranh, giữa các cường  quốc Tây phương, để thanh toán những mâu thuẫn nội bộ với nhau. 
Lúc  đầu của cuộc đại chiến, Nga Sô đã vận dụng nỗ lực để đứng ngoài chiến  trận. Đó là một thái độ khôn ngoan nhất, vì, nếu đê hai phe, đồng minh  và trục, tiêu diệt lực lượng lẫn nhau đến kiệt quệ, thì sau đó, với lực  lượng nguyên vẹn của mình, Nga Sô sẽ nắm bá quyền Âu châu và ngày nay  Tây phương sẽ yếu thế hơn nhiều. 
Vì vậy mà, đứng về quan điểm Tây  phương, theo đó, Nga là một kẻ thù cổ truyền, sự tấn công, vào đất Nga  của Đức Quốc Xã, là một hành động hợp lý. Và phe đồng minh liên kết với  Nga là một hành động phản lịch sử, chỉ do những nhu cầu nhất thời về  chính trị quyết định. Và chắc chắn là, sau này trong lịch sử tranh đấu  giữa Nga và Tây phương, hành động của Đức Quốc Xã sẽ được ghi nhớ là một  công trạng đối với Tây phương. Bởi vì chính là nhờ ở sự tấn công Nga,  làm cho Nga phải tiêu hao lực lượng nên sau khi chiến tranh chấm dứt, sự  quân bình giữa Tây phương và Nga mới còn được như ngày nay. 
Đi sâu  vào hơn một chút nữa, mặc dù Nga đã tiêu hao lực lượng rất nhiều, áp lực  của Nga có thể, đối với Tây phương, sau khi chiến tranh chấm dút, còn  mạnh mẽ hơn nhiều, nếu Tây phương chưa phát minh và chế ngự được nguyên  tử năng. Sự phát minh này đã đưa kỹ thuật của Tây phương lên một trình  độ vượt hẳn kỹ thuật của Nga Sô. Và chính vì sự chênh lệch đó mà Nga Sô  đã phải giảm hạ áp lực thật sự của mình đi rất nhiều. Chỉ sau đó nhiều  năm, khi, nhờ sự đóng góp kỹ thuật của Đức, Nga bắt kịp Tây phương về  nguyên tử năng, thì, lúc bấy giờ, áp lực của Nga mới trở thành mạnh mẽ  và đi đến thế quân bình ngày nay. Và nhờ khoảng thời gian mấy năm đó, mà  các cường quốc Tây Âu mới băng bó các vết thương chiến tranh, hưng  vượng lại được và phát triển theo một đà mới, như chúng ta đã thấy ngày  nay. 
Cơ hội 
Đồi với các quốc gia  bị Tây phương thống trị, các biến cố xảy ra đã tạo nên một cơ hội hiếm  có không ngờ. Giả sử mà mâu thuẫn nội bộ giữa các quốc gia Tây phương  không gay cấn đến nỗi xảy ra chiến tranh, thì Nga Sô sẽ không lợi dụng  cơ hội mà tăng cường ảnh hưởng của mình được. Đã như thế thì các thuộc  địa sẽ chưa được giải thoát. Giả sử mà chiến tranh có xảy ra thật, nhưng  các cường quốc Tây phương đều nhận thức, theo như Đức, rằng chính Nga  mới là kẻ thù chính tông và kịp thời, thỏa hiệp Đức, để quay tất cả lực  lượng về đánh Nga, như nhiều lần Đức đã đề nghị, thì kết quả cũng sẽ  tương tự như trường hợp trên. 
Giả sử mà sau đại chiến thứ hai, các  cường quốc Tây phương chưa phát minh được nguyên tử năng, thì áp lực và  ảnh hưởng của Nga đã lan tràn khắp Tây âu. Thế lực của Nga trên thế giới  lấn át thế lực của Tây phương. Tây phương sẽ thâu hẹp vòng kiểm soát.  của họ lại nơi khu vực Bắc Mỹ và một vài nơi khác trên thế giới, như Úc  châu và Nam Phi, thì các thuộc địa sẽ rơi từ vòng thống trị của Tây  phương sang vòng thống trị của Nga Sô. Công cuộc giải thoát dân tộc chưa  chắc đã thực hiện dược, công cuộc phát triển thì quả quyết là xa vời  hơn nữa. 
Đằng này, các biến cố đã thật sự xảy ra đều không nằm vào  một trong ba trường hợp trên. Nga không bị dồn vào một thế yêu quá, mà  cũng không lấn áp được địch thủ. Tây phương không chế ngự được địch thủ,  nhưng cũng không bị địch thủ chế ngự. Chính sự thể hai bên đồng sức và  kình chống nhau đó đã tạo ra cho chúng ta, nghĩa là cho các quốc gia bị  thống trị, hoặc các quốc gia đang tìm phát triển, cơ hội duy nhất từ một  thế kỷ, để phục hồi độc lập và phát triển dân tộc. 
Vì cuộc tranh  chấp giữa Nga Sô và Tây phương dừng vào một giai đoạn quyết liệt, bên  nào cũng nỗ lực tìm đồng minh, cho nên một mặt Tây phương lần hồi trả  độc lập lại cho các nước bị trì, giúp đỡ phương tiện phát triển bằng  Liên Hiệp Quốc, bằng kế hoạch Colombo, bằng viện trợ trực tiếp, v.v… Một  mặt khác cũng với mục đích tìm đồng minh, Nga đã giúp đỡ các cuộc chiến  tranh giải phóng và cũng giúp đỡ phương tiện phát triển cho nhiều quốc  gia. 
Từ hai mươi năm nay, từ ngày đại chiến thứ hai chấm dút, chính  trị thế giới giữa hai khối, tự do và Cộng Sản, đều do các sự kiện trên  đây quyết định. Sự viện trợ cho các cường quốc Tây âu theo kê hoạch  Marshall sự phục hưng Tây Đức và Nhật Bản, sự viện trợ cho các quốc gia  vừa độc lập, tất cả đều nằm trong một kế hoạch hoàn cầu của Tây phương  để liên kết các đồng minh, trong một chiến lược vĩ đại bao vây Nga Sô.  Đối lại, sự giúp đỡ cho Trung Hoa phát triển, sự viện trợ cho các quốc  gia chống Mỹ như Cuba, tất cả đều nằm trong một chiến lược hoàn cầu của  Nga Sô để phá vòng vây. Cho đến các phát minh về không gian cũng được  dùng vào việc liên kết đồng minh trong cuộc chiến đấu vĩ đại giữa Tây  phương và Nga Sô. 
Đối Với Các quốc gia, trước kia đã bị bán thuộc  địa hóa, hay bị thuộc địa hóa, các sự kiện trên thật không phải là một  cơ hội hiếm có, vô cùng quí báu hay sao? Tự nhiên độc lập được phục hồi  và tự nhiên được viện trợ để phát triển. 
Cho đến ngày nay, bao nhiêu quốc gia đã nắm được cơ hội để phát triển? Chúng ta chỉ thấy có Trung Hoa. 
Việt Nam nắm được cơ hội chưa? 
Việt  Nam chúng ta trong hai mươi năm nay, chẳng những chưa lợi dụng được mâu  thuẫn nói trên đây, giữa Tây phương và Nga Sô, để phát triển dân tộc,  lại còn bị lọt vào cái vòng mâu thuẫn đó. Do đó, chẳng những chúng ta  không phát triển được, lại còn bị tiêu hao nhân lực và tài lực đến một  mức độ rất đáng lo ngại. 
Nếu lần này, các nhà lãnh đạo dân tộc lại  làm sẩy cơ hội thứ hai này nữa, thì, dựa theo kinh nghiệm thất bại lần  trước, chúng ta cũng có thể đoán được hoàn cảnh nào đang chờ đợi dân tộc  chúng ta. Và trách nhiệm thất bại, mà thế hệ chúng ta phải mang, đối  với các thế hệ sau này, sẽ vô bờ bến. 
Một cơ hội hiếm có như vậy,  lại đã kéo dài trong hai mươi năm, mà chúng ta chưa nắm được. Các nhà  lãnh đạo dân tộc hiện nay, xem thế cũng phải lấy làm khiếp đảm và tự  khiển trách đến cực độ. Nếu chúng ta lại còn lỡ cơ hội nữa, thì các nhà  lãnh đạo hiện nay sẽ mang nặng, đối với dân tộc, một lỗi lầm không có gì  tha thứ được. 
Các nhà lãnh đạo, phía Nam và phía Bắc, của chúng ta  đã nhận thức tình trạng, vô cùng nguy ngập và khẩn cấp cho chúng ta, như  trên đây đã trình bày chưa? Nếu chúng ta, căn cứ trên các biển cố xảy  ra từ hai mươi năm nay, và nhất là từ mười năm nay, chúng ta phải thú  nhận rằng chưa có một triệu chứng gì bảo đảm cho chúng ta rằng, nguy cơ  đang đe dọa dân tộc đã được các nhà lãnh đạo, phía Nam và phía Bắc, ý  thức. 
Chúng ta sống ở phía Nam, nên trong hai mươi năm vừa qua, có  mấy dịp nhận thấy rằng các nhà lãnh đạo, liên tục kế tiếp nhau thọ lãnh  trách nhiệm về vận mạng của quốc gia, chưa có lúc nào tỏ ra nhìn thấy  vấn đề căn bản mà dân tộc cần phải giải quyết trong giai đoạn này. Đã  không nhìn thấy vấn đề căn bản, thì cố nhiên là không nhìn thấy tình  trạng vô cùng nguy ngập đang đe dọa dân tộc. 
Đối với các nhà lãnh  đạo phía Bắc, nghiên cứu các sáng tác về chính trị cũng như các hành  động chính trị của họ, chúng ta công nhận rằng, nhờ sự nghiệp nghiên cứu  các thực tế lịch sử của Cộng Sản quốc tế, vấn đề căn bản của dân tộc có  thể đã được họ nhìn thấy rõ hơn. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Nga Sô đã  sử dụng thuyết Cộng Sản như là một lợi khí để chiến đấu với Tây phương,  như chúng ta đã nhận thức trong các trang trên đây và chính Mao Trạch  Đông đã viết câu sau đây về thuyết Cộng Sản. 
“Sở dĩ chúng ta nghiên  cứu thuyết Các-mác không phải vì luận điệu tốt đẹp của nó, cũng không  phải vì nó đựng một phép thần diệu để trừ ma quỉ. Nó không đẹp, nó cũng  không thần diệu. Nó chỉ ích lợi. Có nhiều người cho nó là thần dược trừ  bá chứng. Chính những người này đã xem thuyết Các-mác là một giáo lý.  Phải nói cho những người này hiểu rằng giáo lý của họ không có ích lợi  bằng phân bón. Phân bón còn làm giàu ruộng đất, giáo lý không làm được  việc đó.” 
Nghĩa là các lãnh tụ tối cao của khối Cộng Sản đều xem  thuyết Cộng Sản là một phương tiện. Họ chế ngự phương tiện tinh thần đó –  do Tây phương phát minh ra – cũng như những phương tiện vật chất khác  của Tây phương. Ngược lại, các sáng tác chính trị của các nhà lãnh đạo  phía Bắc, lại chứng tỏ rằng, những người lãnh đạo này còn đang say mê  thuyết Cộng Sản và đương nhiên tôn nó lên hàng một chân lý. Đưa một  phương tiện chiến đấu của người, lên làm một chân lý của mình, là mặc  nhiên hạ mình xuống thấp hơn một bậc đối với các lãnh tụ Cộng Sản quốc  tế và tự biến mình thành một thứ nô lệ trí thức để cho người sử dụng. Vì  vậy cho nên, trong nhiều hành động chính trị của các nhà lãnh đạo phía  Bắc, lý thuyết Cộng Sản được để lên trên quyền lợi của dân tộc, điều ấy  chứng tỏ rằng, trong lĩnh vực ngoại giao giữa các quốc gia, họ tin rằng  một sự đồng minh về lý thuyết có thể đặt trên quyền lợi của dân tộc. 
Do  các lý lẽ trên đây chúng ta có thể quả quyết rằng các nhà lãnh đạo phía  Bắc vẫn chưa nhận thức nguy cơ đang đe dọa dân tộc và những ngày đen  tối của chúng ta vẫn còn tiếp tục. 
Cơ hội thứ hai đã mất chưa? 
Ngày nay chúng ta đã lỡ cơ hội thứ hai để phát triển dân tộc chưa? 
Như  ta đã thấy cơ hội nói trên được tạo ra do những mâu thuẫn phát sinh từ  một cuộc tranh đấu giữa Tây phương và Nga Sô. Vậy cơ hội sẽ mất trong  hai trường hợp: 
1.- Mâu thuẫn vẫn còn, nhưng chiến lược hai bên đều thay đổi, cho nên sự liên kết đồng minh không cần thiết nữa. 
2.- Mâu thuẫn không còn. 
Trong cuộc tranh đấu hiện nay giữa Tây phương và Nga Sô, Tây phương do Mỹ lãnh đạo về quân sự và Anh, Mỹ lãnh đạo về đường lối. 
Trên  phương diện quân sự, chiến lược của Mỹ không phải là một chiến lược tấn  công, nhưng là một chiến lược phản công kịp thời bằng võ khí nguyên tử,  ngay vào các trung tâm chiến lược của Nga Sô. Do đó, và bởi vì lúc đầu  của giai đoạn hiện tại của cuộc tranh đấu, tầm hoạt động của phi cơ, phi  đạn đều có giới hạn cho nên Mỹ cần một số căn cứ chiến lược bao quanh  Nga Sô từ Âu sang Á. Đó cũng là nguyên nhân của công cuộc Mỹ viện trợ  các nước không phải là Tây phương. Nơi nào Mỹ đóng căn cứ là nơi đó Mỹ  viện trợ. Sau đó khi bộ máy viện trợ đã thành và chạy đều, nhiều sự kiện  chính trị hay kinh tế chiến lược khác cũng thành những lý do viện trợ. 
Để  phá vòng vây của Mỹ, Nga cũng viện trợ cho các quốc gia đó, để cho sự  cần thiết đối với Mỹ kém đi thì các quốc gia liên hệ có thể từ chối  không cho Mỹ đặt căn cứ trên lãnh thổ mình. Đồng thời Nga Sô nỗ lực chế  các loại phi đạn có tầm hoạt động xa để bắn tới các trung tâm chiến lược  của Mỹ. 
Các quốc gia tốt số đó, được hai bên ưu đãi và nếu ý thức  được vấn đề căn bản của mình, thì dùng viện trợ đó để phát triển dân  tộc. 
Vì Mỹ có căn cứ ở gần Nga Sô, mà Nga Sô không có căn cứ ở gần  Mỹ cho nên Nga Sô mới dồn hết nỗ lực kỹ thuật và kỹ nghệ của mình vào  việc sáng chế các phi đạn trường xạ trình liên lục địa và đã tiến bộ hơn  Mỹ về điểm này. Và, đương nhiên, tiến bộ hơn Mỹ về không gian phi hành,  bởi vì ngành này phải dùng loại phi đạn trường xạ trình. Mỹ ỷ lại vào  các căn cứ đã có gần Nga Sô, nên không chú trọng đến các phi đạn trường  xạ trình. 
Tuy nhiên bởi vì sự tuyên truyền của Nga Sô, nên các căn  cứ quân sự của Mỹ, ở các nơi trên thế giới, gây ra nhiều thất bại về  chính trị, ví dụ, như ở Nhật, khi Tổng Thống Eisenhower sắp sửa sang  viếng Đông Kinh năm 1960. Cân nhắc kỹ, cái lợi quân sự không bù cái hại  về chính trị, cho nên Mỹ lại xoay sang chiến lược thay thế các căn cứ cố  định trên đất liền, bằng những căn cứ phóng hỏa tiễn trung xạ trình,  lưu động: Các tiềm thủy đĩnh nguyên tử. 
Trên phương diện quân sự, sự  thay đổi chiến lược này, có nghĩa như là Mỹ đã tăng gia được tầm hoạt  động của các phi đạn và không cần các căn cứ quân sự chung quanh Nga  nữa. 
Căn cứ không cần đặt, thì viện trợ sẽ rút. Khi nào số tiềm thủy  đĩnh nguyên tử của Mỹ lên đến số lượng đủ dùng để thay thế các căn cứ  trên lục địa, thì viện trợ Mỹ sẽ chấm dứt 
Và cơ hội phát triển của các nước nghèo sẽ bớt đi nhiều. 
Công  cuộc rút này đã bắt đầu thi hành ở nhiều nơi. Tuy nhiên, nếu trường hợp  này xảy ra, mâu thuẫn Nga Sô - Tây phương vẫn còn, và các nước nhỏ mặc  dầu phát triển có khó khăn, nhưng vẫn còn có hy vọng phát triển và độc  lập không đến nỗi bị đe dọa. 
Đường lối của Tây phương, trong công  cuộc chiến đấu với Nga Sô, do Anh, Mỹ lãnh đạo. Căn bản chính yếu của  đường lối này, càng ngày càng bộc lộ rõ rệt. Các nhà lãnh đạo Tây phương  nhận thức hai điều. 
Trước hết lý do chính, vì đó mà Nga Sô đã dốc  hết nhân lực và lài lực của mình vào công cuộc chiến đấu vĩ đại với Tây  phương, là ý chí của Nga Sô để thực hiện công cuộc phát triển dân tộc. 
Điều  thứ hai là Nga Sô đã thực hiện được công cuộc phát triển dân tộc và nay  trở thành một cường quốc mà sức mạnh và năng lực đáng được kính nể. 
Đường lối của Tây phương. 
Tất cả đường lối của Tây phương trong cuộc chiến đấu với Nga Sô đã được xây dựng từ trên hai nhận xét căn bản. 
Như  chúng ta đã thấy, trong một giai đoạn trên đây bàn về nước Nga, nước  Nga và Tây phương có một di sản tinh thần chung: Đạo Gia Tô. Nhưng Tây  phương theo Gia Tô Tây phái, Giáo chủ ở tại La Mã; Nga Sô theo Gia Tô  Đông phái, Giáo chủ lúc đầu ở Hy Lạp. Và hai nền văn minh Tây phương và  Nga do đó có nhiều điểm giống nhau. Nhưng vì một sự kiện lịch sử, mà  chúng ta đã biết, di sản tinh thần chung, có thời kỳ, có hiệu lực là một  yếu tố liên hợp giữa hai bên, lại, có thời kỳ, có hiệu lực là một mầm  chia rẽ. 
Mặc dù phải võ trang đến cực độ và thủ thế với nhau từng  hành động và từng lời nói, đường lối của Tây phương hiện nay đối với Nga  Sô là, kêu gọi đến tính cách liên hiệp của di sản tinh thần chung, mục  đích đưa Nga trở về với xã hội Tây phương và khối người cùng một nền văn  minh. 
Tất cả nỗ lực ngoại giao của Tây phương đều hướng về mục đích  trên, từ những hành động nhỏ nhặt, của từng cá nhân, đến những trao đổi  văn hóa và những hiệp ước thương mại hay quân sự, giữa Nga Sô và các  quốc gia Tây phương. 
Ví dụ, không phải tình cờ mà người Anh đặt tên  cho vệ tinh đầu tiên sắp bắn lên quĩ đạo là “Britnik”. Nhưng mà là cố ý  tỏ lòng thán phục những vệ tinh “Spoutnik  của Nga. “Brit” là British  (của người Anh), “nik” để nhắc rằng những vệ tinh của loài người bắn lên  không gian trước hết là của Nga Sô. Ngụ ý của sự lựa chọn trên, là để  thỏa mãn lòng tự ái của Nga Sô lâu nay vẫn bị Tây phương xem là thấp  kém, và nhắc nhở Nga Sô rằng Nga Sô và Tây phương đều cùng chung một nền  văn minh. 
Không phải tình cờ mà ông Paul Reynaud cựu Thủ tướng  Pháp, trong cuộc thăm viếng nước Nga đã long trọng tuyên bố với Thủ  tướng Krutchev: “Nếu các ông tiếp tục viện trợ cho nước Tàu, trong vài  mươi năm nữa, một tỷ dân Trung Hoa sẽ đè bẹp các ông và Âu châu.” 
Những  sự hoan nghinh và tiếp rước nồng hậu các phi hành gia Nga, ở các kinh  đô Tây phương, cũng hàm cùng một ý nghĩa. Những sự trao đổi về văn hóa  và khoa học, trong hội nghị quốc tế, hay những cuộc viếng thăm của những  phái đoàn văn nghệ của hai bên đều là những hành động có tính toán,  chuẩn bị dư luận của hai bên, để dẫn dắt lần lần quần chúng của hai bên  đến chỗ thông cảm với nhau. 
Báo chí Tây phương không ngớt ca ngợi  những thành tích khoa học và xã hội của Nga Sô và luôn luôn nhắc nhở đến  những thời kỳ mà sự liên lạc giữa các nước Nga và Tây phương rất là  thân hữu. Tất cả các hành động trên, trong tất cả các lĩnh vực, đều dọn  đường để cho Nga Sô trở về với xã hội Tây phương. 
Cuối cùng và quan  hệ hơn hết, là những nỗ lực để phát huy di sản tinh thần chung. Sau khi  đã ly khai với nhau trong nhiều thế kỷ, giáo chủ Gia Tô Tây phái ở Roma  là Giáo Hoàng Gioan XXIII đã mời và tiếp kiến các vị giáo chủ Tin Lành  và các vị giáo chủ Gia Tô Đông phái. Các báo chí Tây phương đều hết sức  hoan nghinh những cuộc tiếp xúc trên, để chuẩn bị cho công cuộc thống  nhất Gia Tô giáo. 
Sự tổ chức Công Đồng Vatican I tiếp tục chính sách  trên và thích hợp với một đường lối chính trị của Tây phương. Vì vậy  cho nên, sau khi Gioan XXIII đã từ trần, thì dĩ nhiên Phao Lô VI sẽ tiếp  tục chính sách trên và tổ chức Công Đồng Vatican II, trong đó, các giáo  chủ các phái Gia Tô, ngoài Tây phái, đều được mời tham dự với tư cách  là quan sát viên. 
Xem thế, chúng ta nhận thấy một cách rõ rệt, xuyên  qua không khí phức tạp và rối rắm, của sự bang giao giữa hai khối,  những nét chính yếu của đường lối Tây phương đối với Nga Sô.
| Kỳ Trước | Kỳ Sau |