1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 16
               | TÙNG PHONG (NGÔ ĐÌNH NHU) | 
Phần III (D) 	Đường lối phát triển. 	 	
Bách phân  lợi tức quốc gia đóng góp mỗi năm vào quỹ trang bị kỹ nghệ, cũng như  thời gian đóng góp đối với mỗi quốc gia mỗi khác. Điều này chứng minh  rằng, mặc dầu tất cả các quốc gia đã phát triển hay đương tìm phát  triển, đều theo đuổi một mục đích giống nhau: trang bị kỹ nghệ; nhưng vì  điều kiện lịch sử, vị trí địa dư, và tình trạng xã hội lúc bắt đầu công  cuộc phát triển, đều mang những tính chất riêng biệt cho từng quốc gia,  cho nên hoàn cảnh phát triển, cũng như điều kiện phát triển không làm  sao giống nhau được. Vì thế, không có đường lối phát triển nào, gồm  chương trình và phương pháp, đã tỏ ra có hiệu lực cho một quốc gia, và  trong một giai đoạn, có thể xuất cảng sang một quốc gia khác, trong một  giai đoạn khác. 
Mỗi quốc gia chỉ có thể phát triển theo một đường  lối được quan niệm riêng cho quốc gia đó, ấn định bởi điều kiện lịch sử,  vị trí địa dư, và tình trạng xã hội đặc biệt cho quốc gia. Tinh thần  của sự phát triển, mục đích của sự phát triển, và những thực hiện kỹ  thuật của công cuộc phát triển, đều giống nhau cho các quốc gia, nhưng  chương trình phát triển, phương pháp phát triển và những mục tiêu giai  đoạn của công cuộc phát triển không thể giống nhau được. 
Nhiệm vụ  của các nhà lãnh đạo là tìm cho được các yếu tố quy định đường lối phát  triển thích nghi với dân tộc, thay vì thừa nhận làm của mình, một đường  lối đã được nghiên cứu và được chứng minh là có hiệu lực riêng cho quốc  gia, nhưng phương pháp lẫn chương trình đều không thích hợp cho chúng  ta. 
Đường lối phát triển cho Trung Cộng, không thể là đường lối phát  triển của Nga Sô. Phong trào nhân dân công xã, mà Nga Sô đã đả kích từ  lúc bắt đầu, mặc dầu thất bại đau đớn, vẫn là một bằng chứng hùng biện  cho nỗ lực của các nhà lãnh đạo Trung Cộng để tìm đường lối phát triển  đặc biệt thích nghi với nước Tàu. 
Và chúng ta còn nhớ, ngay trong  giai đoạn tranh giành độc lập lúc nào các nhà lãnh đạo Ấn Độ cũng đủ  sáng suốt nhìn thấy thâm ý chiến lược của Nga Sô, nên không bị ma lực  của thuyết Cộng Sản, trong thời kỳ cực thịnh lôi cuốn. 
Và ngày nay,  công cuộc phát triển của Ấn Độ cũng theo một đường lối riêng biệt, đã  được ân định bởi những điều kiện nội bộ của dân tộc Ấn. 
Chủ trương  một đường lối phát triển riêng cho dân tộc không có nghĩa là phủ nhận  những kinh nghiệm phát triển của các quốc gia đã đi trước và phủ nhận  những điều tương đồng trong công cuộc phát triển giữa nhiều quốc gia.  Trái lại chỉ có sự nghiên cứu các kinh nghiệm phát triển, ở mọi nơi, mới  tạo đủ điều kiện cho các nhà lãnh đạo một quốc gia, nắm vững các nguyên  tắc chi phối sự phát triển để quan niệm một đường lối phát triển cho  dân tộc, thích nghi với hoàn cảnh đặc biệt, do những thực tế lịch sử ấn  định. 
Mục tiêu kinh tế 
Hoàn cảnh  phát triển của một quốc gia là toàn bộ các điều kiện ấn định bởi giai  đoạn lịch sử, tình hình chính trị, trình độ xã hội, vị trí địa dư và tài  nguyên kinh tế của quốc gia đó. Và chỉ trong sự tôn trọng toàn bộ các  điều kiện ấy, công cuộc phát triển mới có thể thực hiện được. Như thế  thì hoàn cảnh phát triển chi phối nghiêm khắc, đường lối phát triển,  nghĩa là chương trình phát triển và phương pháp vận dụng nhân lực để  thực hiện chương trình phát triển. Và trong các mục tiêu kinh tế cần  phải thực hiện cho từng giai đoạn, cũng như trong những thời gian hạn  định cho các mục tiêu, sẽ thể hiện một cách rõ ràng những bức bách khắc  nghiệt của hoàn cảnh phát triển. Mục tiêu càng cao, sự đóng góp của nhân  dân càng nặng, thời gian càng ngắn, sự gian lao của nhân dân càng sâu  đậm. 
Trong trường hợp phát triển của Trung Cộng mà chúng ta đã đề  cập đến, sự đóng góp của nhân dân, càng năm càng lên cao, để thực hiện  những mục tiêu vĩ đại, hy vọng đáp ứng nhu cầu vô tận do một hoàn cảnh  phát triển vô cùng khắc nghiệt đòi hỏi. 
Trước hết, công cuộc phát  triển của một khối gần tám trăm triệu dân, tự nó đã mang những trở lực  vật chất kinh khủng, bởi vì khối phương tiện nhân lực và tư bản cần được  vận dụng vô cùng to tát. 
Sau đó, sự phát triển của một khối người  gần bằng một phần tư nhân loại, là một sự cạnh tranh ghê gớm và một sự  đe dọa an ninh chưa thấy trong lịch sử, cho tất cả các quốc gia trên thế  giới, kể cả Nga Sô, dù mà các nhà lãnh đạo Trung Cộng không biểu lộ,  một cách hiển nhiên như hiện nay, những tham vọng xâm lăng đáng sợ. Do  đó, sự phát triển của Trung Cộng đương nhiên sẽ tạo phản ứng thù nghịch  của nhiều cường quốc kể cả Nga Sô. Và những phản ứng này sẽ biến thành  những trở lực không vượt qua được, cho công cuộc phát triển. 
Giả sử  mà, sự phát triển của Trung Cộng không tạo ra những phản ứng thù nghịch;  và dù có những thiện chí muốn trợ lực công cuộc phát triển ấy, thì cũng  không có khối viện trợ nào trên thế giới có thể thỏa mãn đến một bách  phân đáng kể, các nhu cầu phát triển của khối người gần tám trăm triệu  dân. 
Các nhà lãnh đạo Trung Cộng, cố nhiên, ý thức sung mãn các điều  kiện khủng khiếp của hoàn cảnh phát triển khắc nghiệt của nước Tàu. Vì  vậy cho nên, để tìm giải pháp cho vấn đề phát triển dân tộc, mà đương  nhiên họ xem là chính yếu, họ đã thi hành hai loại chính sách, từ ngày  nắm chính quyền. Loại thứ nhất gồm các biện pháp nội bộ nhằm thúc đẩy  công cuộc phát triển thật nhanh chóng để kịp thời ứng phó với các phản  ứng thù nghịch của các cường quốc. Loại thứ hai gồm các biện pháp ngoại  giao, để như nước Nga khi xưa, tìm đồng minh hậu thuẫn cho công cuộc  phát triển của dân tộc. 
Các biện pháp nội bộ của các nhà lãnh đạo  Trung Cộng chú trọng đến hai điểm. Đặt những mục tiêu kinh tế vĩ đại cho  hai khu vực, quốc phòng và trang bị kỹ nghệ sản xuất, và bóp nghẹt khu  vực tiêu thụ. Áp dụng một phương pháp độc tài, tàn nhẫn đến tột độ để  huy động đến mức tối đa cái vốn nhân lực vô tận của Tàu, để thay thế cái  vốn tư bản mà họ nghèo nàn. 
Trong lĩnh vực ngoại giao, các nhà lãnh  đạo Trung Cộng đã và đang thi hành ba chiến dịch. Trong chiến dịch thứ  nhất, họ đã tìm khai thác mâu thuẫn giữa Tây phương và Nga Sô khi mâu  thuẫn này còn khai thác được, để mang tư bản và kỹ thuật vào phục vụ  chương trình phát triển. Khi kế hoạch thanh toán mâu thuẫn của Tây  phương, mà chúng ta đã biết, đã đưa mâu thuẫn trên vào tình trạng không  còn khai thác được nữa, thì các nhà lãnh đạo Trung Cộng mở một chiến  dịch thứ nhì, vận động thay chân Nga Sô, với mục đích thành lập một mặt  trận làm hậu thuẫn cho công cuộc phát triển của Tàu. Tác dụng và giá trị  của mặt trận Cộng Sản để bảo vệ công cuộc phát triển của dân tộc Tàu  ngày nay do Trung Cộng chủ trương, cũng giống như tác dụng và giá trị  của mặt trận Cộng Sản để bảo vệ công cuộc phát triển của dân tộc Nga  trước đây, do Nga Sô chủ trương. 
Chiến dịch ngoại giao thứ ba mà các  nhà lãnh đạo Trung Cộng đang thực hiện là chương trình viện trợ cho các  nước nhỏ đang tìm phát triển. Họ đã trích một bách phân không đáng kể,  trong cái khối nhu cầu vĩ đại của quốc gia, để thỏa mãn những nhu cầu  phân bộ và đương nhiên nhỏ nhặt của các quốc gia nhỏ đang tìm phát triển  với mục đích biến các quốc nhỏ này thành những Đồng Minh quốc tế hậu  thuẫn cho công cuộc phát triển riêng của nước Tàu. 
Và ngay chính  sách biểu lộ tham vọng xâm lăng cũng là một hành động có tính toán qui  về mục đích trước và trên hết của Trung Cộng hiện nay: công cuộc phát  triển dân tộc. Các trường hợp chiếm đóng Tây Tạng và Tân Cương và chi  phối Bắc Hàn và Bắc Việt là những trường hợp đặc biệt, bởi vì các vùng  đất đai nói trên thuộc vào những vùng thiết yêu cho sự phát triển của  Trung Hoa. Các cuộc gây hấn về ranh giới với Ấn Độ, Miến Điện và Nga Sô,  có tác dụng, vừa gây uy tín của Trung Cộng đối với các đồng minh trong  mặt trận do Trung Cộng chủ trương, vừa duy trì sự căng thẳng cần thiết  trong nội bộ để dễ huy động nhân lực. 
Mặc dầu tất cả các nỗ lực phi  thường trên đây, nhưng vì một hoàn cảnh phát triển vô cùng khắc nghiệt,  Trung Cộng còn cách mục đích rất xa. Và sự cho nổ bom nguyên tử, với một  mục đích tuyên truyền hiển nhiên, vẫn chưa phải là một bảo đảm thành  công cho công cuộc phát triển của Trung Cộng. Sự thất bại đau đớn của  phong trào Nhân Dân Công Xã, khiến cho các mục tiêu kinh tế đã ấn định,  thay vì nhảy vượt bậc, đã thụt lùi lại nhiều năm, chứng tỏ sự vội vàng  của các nhà lãnh đạo Trung Cộng đang lo sợ phản ứng thù nghịch không  tránh được của các cường quốc, trong đó có cả Nga Sô. 
Trường hợp Việt Nam. 
Tất  cả các điều kiện khốc liệt đã khiến cho hoàn cảnh phát triển của Trung  Cộng. trở thành vô cùng khắc nghiệt, đều không có trong các điều kiện  chi phối hoàn cảnh phát triển của Việt Nam. 
Trước hết, sự phát triển  của một khối vừa hơn ba chục triệu, một phần hai mươi lăm của khối  Trung Cộng, sẽ không là một sự cạnh tranh và một sự đe dọa cho ai cả. Vì  thế cho nên, trong hiện tình thế giới, công cuộc phát triển của chúng  ta sẽ không tạo cho chúng ta những phản ứng thù nghịch. 
Nhu cầu phát  triển của chúng ta rất ít so với nhu cầu phát triển của Trung Cộng. Vì  thế cho nên các khối viện trợ trên thế giới có thể thỏa mãn nhu cầu phát  triển của chúng ta đến một bách phân đáng kể hoặc rất cao. Và chúng ta  có thể tin rằng, nếu đường lối chính trị của chúng ta đủ sáng suốt, thì  trong hai mươi năm đã qua, khai thác cơ hội thứ nhì, mà chúng ta đã đề  cập đến nhiều lần, và với tất cả các viện trợ do mâu thuẫn giữa Tây  phương và Nga Sô tạo nên, chúng ta đã đạt đa số mục tiêu phát triển rồi.  
Sự phát triển của khối ba chục triệu dân của chúng ta, nếu ở ngoài  vòng hoàn cảnh phát triển khắc nghiệt của Trung Cộng, không cần thúc  đẩy, cũng có thể thực hiện được nhanh chóng hơn bội phần sự phát triển  của Trung Cộng. 
Trong các điều kiện đó, nếu đặt quyền lợi của dân  tộc lên trên hết, thì không có một lý do nào có thể binh vực được sự gắn  liền vận mạng công cuộc phát triển của chúng ta với vận mạng công cuộc  phát triển của Trung Cộng. Chỉ có một sự lệ thuộc về lý thuyết, mà thật  ra cả Nga Sô lẫn Trung Cộng đều sử dụng như là một phương tiện, mới có  thể mù quáng hy sinh quyền lợi của dân tộc Việt Nam cho quyền lợi của  dân tộc Trung Hoa. Các nhà lãnh đạo Trung Cộng ý thức sung mãn tâm lý đó  ngày nay, cũng như các nhà lãnh đạo Nga Sô ý thức sung mãn tâm lý đó  trước đây. Vì vậy cho nên, Trung Cộng nỗ lực vận động thay chân Nga,  phất cờ Chủ Nghĩa Xã Hội, khai thác lý thuyết Các-mác Lê-nin, qui tụ  những người dễ bị ma lực cám dỗ, với mục đích cuối cùng là hậu thuẫn cho  công cuộc phát triển của Hán Tộc. Cuộc vận động này vang dội trong tất  cả các Đảng Cộng Sản trên thế giới. 
Mặc dầu hoàn cảnh phát triển của  Việt Nam khác biệt rất rõ rệt hoàn cảnh phát triển của Trung Cộng ngày  nay, và do đó lại cũng khác biệt rất rõ rệt hoàn cảnh phát triển của Nga  Sô trước đây, các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt vẫn cố sức mang cái áo  đường lối phát triển của Cộng Sản để tròng vào cho Việt Nam. Cũng như  xưa kia, nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam khác đã cố sức tròng vào thân thể  Việt Nam cái áo Tam Dân Chủ Nghĩa mà Tôn Văn đã gia công nghiên cứu may  cắt cho dân tộc của ông. 
Sau tám trăm năm đè nặng lên đời sống của  dân tộc tâm lý thuộc quốc đối với Trung Hoa, mặc dầu bị gián đoạn trong  gần một thế kỷ, vẫn còn sinh lực tiềm tàng trong cân não của các nhà  lãnh đạo của chúng ta, và khiến cho họ dễ quên tham vọng đất đai bất di  bất dịch của Trung Hoa đối với Việt Nam. 
Lại tâm lý thuộc quốc 
Tâm  lý thuộc quốc bắt nguồn từ hai sự kiện. Tương quan lãnh thổ và dân số  giữa hai quốc gia là một nguyên nhân tự ty mặc cảm. Sự lệ thuộc của Việt  Nam đối với văn hóa Tàu là một lý do khác. Tương quan lãnh thổ và dân  số là hai điều kiện vật chất hiển nhiên khó thay đổi được. Tuy nhiên,  trong khung cảnh chính trị của thế giới ngày nay, sự bang giao giữa Việt  Nam và Trung Hoa không còn nằm trong khuôn khổ xưa nữa và không còn là  một sự kiện chỉ liên quan đến hai quốc gia. 
Trên lĩnh vực văn hóa,  một dân tộc lớn hay nhỏ, do sự góp phần nhiều hay ít của dân tộc ấy vào  di sản của văn minh nhân loại. Trong lịch sử cổ Hy Lạp, thành Athen nhỏ  bé được tôn sùng là người hướng đạo của dân tộc Hy Lạp, vì sự góp phần  to tát vào di sản văn minh Hy Lạp. Điều kiện văn hóa này, chúng ta có  thể chủ động được, miễn là công cuộc phát triển của dân tộc thực hiện  được. Và thế hệ của chúng ta có thể có đủ điều kiện và hoàn cảnh để thực  hiện ý chí của Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ, tiêu diệt tâm lý thuộc  quốc đã mấy ngàn năm bao trùm dân tộc và ám ảnh các thế hệ lãnh đạo của  chúng ta. Xem thế, chúng ta càng ý thức tính cách quan trọng của công  cuộc phát triển dân tộc trong giai đoạn này. 
Sự lệ thuộc của Việt  Nam đối với văn hóa Tàu đã như không còn nữa, từ khi chúng ta chịu ảnh  hưởng văn hóa Tây phương. Trong tình thế hiện tại, tương lai sẽ càng  ngày càng xác nhận sự kiện này, trừ ra khi nào chúng ta lại tự đặt chúng  ta vào sự lệ thuộc văn hóa của Trung Cộng, như các nhà lãnh đạo Cộng  Sản Bắc Việt đang làm. 
Trong tình thế hiện nay, chẳng những văn hóa  của chúng ta không lệ thuộc văn hóa Tàu, mà lại văn hóa của chúng ta còn  có cơ hội phát triển hơn bao giờ hết. Hiện nay Trung Hoa và Việt Nam,  do các biến cố lịch sử vừa qua, đều nằm vào cùng một vị trí. Cả hai đều  vừa thoát khỏi sự chi phối của thực dân, và đang nỗ lực Tây phương hóa  để phát triển dân tộc. Các dị điểm và các đồng điểm giữa hai vị trí đã  được chúng ta phân tích với chi tiết trong các đoạn trên. Và chúng ta  cũng biết rằng công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa sẽ  gồm sự thâu nhận nhiều giá trị tiêu chuẩn dính liền với kỹ thuật Tây  phương. Do đó, xã hội Trung Hoa cũng như xã hội Việt Nam sẽ đương nhiên  bị bắt buộc tìm một trạng thái điều hòa mới giữa các giá trị tiêu chuẩn.  Chúng ta đã thấy hoàn cảnh phát triển của chúng ta thuận lợi hơn hoàn  cảnh phát triển của Trung Hoa. Trong một đoạn dưới đây chúng ta sẽ thấy  rằng điều kiện ngôn ngữ của chúng ta cũng thuận lợi hơn của Trung Hoa.  Như thế thì, nếu chúng ta thực hiện được công cuộc phát triển, sự lệ  thuộc văn hóa của chúng ta đối với Trung Hoa không bao giờ tái diễn nữa.  
Tóm lại, nếu tương quan lãnh thổ và dân số, giữa Việt Nam và Trung  Hoa, trong khung cảnh chính trị của thế giới ngày nay, không còn cái tầm  quan trọng của nó khi xưa nữa, và nếu sự lệ thuộc văn hóa đối với Trung  Hoa cũng không còn nữa, thì đương nhiên tâm lý thuộc quốc của chúng ta  đối với Trung Hoa cũng sẽ bị tiêu diệt mãi mãi. 
Như thế thì, nếu  chúng ta có một sự lãnh đạo sáng suốt để bảo đảm công cuộc phát triển  dân tộc, thì cơ hội, đương nhiên sẽ đến với chúng ta để giải quyết một  vấn đề đã đặt ra cho dân tộc từ một ngàn năm nay, và hai lần Lý Thường  Kiệt và Nguyễn Huệ đã cố tìm giải pháp: cởi bỏ cho dân tộc tâm lý thuộc  quốc đối với Trưng Hoa. 
Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt không tỏ ra ý thức tính cách quan trọng của cơ hội này. 
Trái  lại, sự áp dụng các phương pháp huy động nhân lực của Trung Cộng vào  trường hợp Việt Nam, mặc dầu hoàn cảnh phát triển của chúng ta không hề  đòi hỏi những phương tiện như vậy, làm sống lại tâm lý thuộc quốc, gần  như đã chết trong một thế kỷ, của những người tự ty mặc cảm trước Trung  Hoa vĩ đại, lúc nào cũng xem Việt Nam là một Trung Hoa con con. Từ xưa,  dưới sự chi phối của tâm lý thuộc quốc, nếu Trung Hoa diễn một tấn tuồng  trên sân khấu trăm thước vuông, thì Việt Nam cũng phải diễn cũng một  tấn tuồng thúc lại cho vừa tầm, trên một sân khấu chỉ còn một thước  vuông. Xưa kia, vì nước Tàu có một tòa Văn Miếu lớn, thì Việt Nam cũng  phải có một tòa Văn Miếu nho nhỏ. 
Gần đây, vì nước Tàu có sách lược  Tam Dân Chủ Nghĩa rộng lớn, thì Việt Nam cũng có sách lược Tam Dân Chủ  Nghĩa nho nhỏ. Và ngày nay, vì nước Tàu thi hành phương pháp độc tài  Đảng trị kinh khủng một cách rộng lớn, thì Bắc Việt cũng thi hành phương  pháp độc tài Đảng trị kinh khủng một cách nho nhỏ. 
Hoàn cảnh phát  triển của chúng ta không đòi hỏi những biện pháp dựa trên bạo lực, mà  chỉ đòi hỏi một sự lãnh đạo sáng suốt và khôn ngoan, để khai thác các  loại mâu thuẫn, trên chính trường thế giới, với mục đích tìm vốn tư bản  để thỏa mãn nhu cầu phát triển. 
Nhưng, giả sử mà viện trợ ngoại quốc  cho chúng ta, không lên đến một bách phân quan trọng của nhu cầu phát  triển quốc gia, thì chính trường hợp đó cũng chưa đủ để thuyết minh sự  áp dụng vào Việt Nam, phương pháp huy động nhân lực thi hành ở Trung  Cộng. Trong chương trình phát triển của Trung Cộng, ưu tiên đặc biệt  được dành cho khu vực kỹ nghệ quốc phòng. Sau đó đến khu vực kỹ nghệ sản  xuất. Khu vực tiêu thụ bị bóp nghẹt. Thứ tự ưu tiên trên phản ảnh mối  lo âu của các nhà lãnh đạo Trung Cộng, tìm cách ứng phó với các phản ứng  thù nghịch. Và thứ tự ưu tiên trên đương nhiên đòi hỏi các biện pháp  huy động nhân lực đã áp dụng. 
Sự phát triển của Việt Nam không gây  phản ứng thù nghịch. Nhưng giả sử sự phát triển của chúng ta có gây phản  ứng thù nghịch, thì dù chúng ta có dồn hết nỗ lực của dân tộc vào khu  vực quốc phòng thì, như chúng ta đã biết, tất cả cố gắng quân sự của  chúng ta cũng chưa đủ để bảo vệ độc lập và lãnh thổ. Như thế thì, trong  chương trình phát triển của chúng ta, ưu tiên dành cho khu vực sản xuất  và khu vực tiêu thụ. Một thứ tự ưu tiên như vậy không đòi hỏi các biện  pháp huy động nhân lực của Trung Cộng. 
Nhưng dù là trong một hoàn  cảnh phát triển thuận lợi, sự huy động nhân lực theo lối Cộng Sản, không  phải là một yếu tố để thúc đẩy công cuộc phát triển chóng đến thành  công sao? Trên quan điểm dài hạn của đời sống dân tộc, sinh lực dân tộc  là một của báu, mà bất cứ nhà lãnh đạo nào cũng phải đặt cho mình nghiêm  luật không được tiêu hao hay phí phạm, khi quyền lợi của cộng đồng bắt  buộc phải dùng đến. 
Các nhà lãnh đạo Trung Cộng sở dĩ phải chọn lựa  phương pháp hành động như vậy, vì họ bị sự chi phối của hoàn cảnh phát  triển khắc nghiệt của nước Tàu. Việt Nam không ở vào trường hợp bắt buộc  đó. 
Vả lại, các phương pháp huy động nhân lực theo Cộng Sản sẽ lưu lại cho dân tộc những hậu quả như thế nào? 
Chúng  ta chỉ có thể nhận xét rằng, cho đến ngày nay, nghĩa là gần hai trăm  năm sau, dân tộc Pháp còn mang chịu những hậu quả tai hại của cuộc Cách  Mạng năm 1789, mặc dầu trên phương diện bạo tàn và đẫm máu, Cách Mạng  1789 của Pháp còn kém xa Cách Mạng của Nga Sô và Cách Mạng của Trung  Cộng. 
Sau hết, giả sử, chúng ta bỏ qua hết tất cả lý do thuận hay  không thuận, cứ thi hành triệt để các phương pháp huy động nhân lực của  Cộng Sản để thực hiện công cuộc phát triển của dân tộc, thì cái vốn nhân  lực ba chục triệu của chúng ta cũng không đủ cung cấp thêm được bao  nhiêu bách phân của khối nhu cầu phát triển của chúng ta. 
Từ hai  mươi năm nay, cơ hội phát triển đã đến cho chúng ta. Nhưng chúng ta chưa  nắm được. Từ mười năm nay, Bắc Việt chưa thực hiện được những mục tiêu  phát triển đáng kể. 
Các thực hiện phát triển của Nam Việt đều bị du kích quân Bắc Việt phá hoại. 
Sau  hai mươi năm, và sau khi tiêu hao bao nhiêu sinh lực của dân tộc, chúng  ta đã đạt được kết quả kể trên. Như thế thì, các nhà lãnh đạo của chúng  ta có phải đã đi đúng đường hay không?  
Ý Kiến Bạn Ðọc