| CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM |  | 
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 16
| TÙNG PHONG (NGÔ ĐÌNH NHU) | 
Trong một  phần trên chúng ta đã phân tích các sự kiện lịch sử để tìm hiểu vấn đề  mà dân tộc chúng ta cần giải quyết trong giai đoạn này. Trong một phần  khác, chúng ta đã kiểm điểm những cái vốn mà chúng ta có thể sử dụng  được cũng như những món nợ mà chúng ta phải mang khi chúng ta nỗ lực  giải quyết vấn đề đã nhìn thấy. 
Trong phần dưới đây, chúng ta sẽ làm  một công việc hoàn toàn khác. Trong hai phần trên đây, chúng ta đã dựa  trên những sự kiện lịch sử không ai phủ nhận được để phân tích các biến  cố phức tạp hiện nay, mong soi thấu các đường canh và các sợi chỉ chính  yếu đã dệt ra tình trạng hiện tại của dân tộc. Trong phần dưới đây,  chúng ta lại điều hợp những tính chất mà chúng ta đã rút ra được từ  trong khối sự kiện đã được phân tích, đối với mỗi lĩnh vực của dĩ vãng  dân tộc, để tìm xây dựng một đường lối hành động và một phương pháp giải  quyết vấn đề mà chúng ta đã nhìn thấy. 
Nhiều khía cạnh của đường  lối hành động và nhiều yếu tố của phương pháp giải quyết đã được đề cập  đến rải rác trong nhiều đoạn suy luận trên. 
Dưới đây chúng ta cũng  sẽ nhắc trở lại trong một cái nhìn tổng hợp để làm thành một toàn bộ chủ  trương trong các lĩnh vực của đời sống quốc gia. 
Chúng ta đang ở  trong trường hợp của một người vừa xem xong một cuốn phim tả một phần dĩ  vãng của dân tộc trong đó những sự kiện bên ngoài và bên trong đều được  phân tích với ít nhiều chi tiết. Vì thế cho nên khi phim ngừng lại ở  hình chót, nghĩa là ở tình trạng hiện tại của quốc gia, chúng ta đã nhận  thức được tất cả các nguyên nhân đã cấu tạo vấn đề hiện tại của dân  tộc. 
Chúng ta có thể nghĩ rằng, tìm được nguyên nhân cố nhiên là  giải quyết được vấn đề, cũng như nhà Y học tìm được căn bệnh, là chữa  được bệnh. 
Nhưng bản chất của đời sông là phức tạp. Đời sống của  quốc gia lại còn phức tạp hơn nữa, bởi vì quốc gia hay bất cứ một tập  thể nào, là trường hoạt động không phải của một người, hay của một nhóm  người, mà là của toàn dân, là của tất cả các phần tử của tập thể. Do đó  phản ứng của tập thể khó mà đoán được. Vì vậy mà nhiều nhà lãnh đạo đã  bị những biện pháp độc tài cám dỗ. Chúng ta không lựa con đường dễ đó  bởi vì chúng ta tin tưởng ở hai điều mà không ai có thể phủ nhận được. 
Sự hiểu biết của chúng ta về vấn đề dân tộc đã được đặt trên căn bản vững chắc của sự kiện lịch sử. 
Đời  sống của một tập thể do định luật thăng bằng động tiến của vũ trụ chi  phối. Thăng bằng động tiến giữa những yếu tố đối chọi nhau ngay trong  nội bộ, thăng bằng động tiến giữa những quyền lợi của tập thể và quyền  lợi của cá nhân, thăng bằng động tiến giữa những điều kiện bên trong và  điều kiện bên ngoài. 
Trên căn bản khách quan đó, chúng ta sẽ tìm  minh định một thái độ mà chúng ta tin rằng thích nghi nhất với vấn đề  hiện tại cần phải được giải quyết của dân tộc. Một thái độ đối với vấn  đề của một dân tộc, đương nhiên bao gồm đủ các lĩnh vực. Chúng ta lần  lượt xem qua các lĩnh vực lãnh đạo, quần chúng, kinh tế và quyền sở hữu,  và văn hóa. 
Vấn đề lãnh đạo 
Bộ  máy lãnh đạo của một quốc gia được ấn định bởi chính thể lựa chọn. Sự  lựa chọn chính thể lại tùy thuộc ở quan niệm về vấn đề lãnh đạo. Khối  Cộng Sản và khối Tự Do, ngày nay khác nhau, trên phương diện hình thức, ở  chỗ một bên chủ trương chính thể Độc tài đảng trị, một bên chính thể  Dân chủ pháp trị. Nhưng, trong căn bản, sự khác nhau không phải về hình  thức bên ngoài đó. Bởi vì hình thức đó chỉ là biểu lộ bên ngoài của một  sự khác nhau về quan niệm lãnh đạo. Khối Tự Do quan niệm một sự lãnh đạo  căn cứ trên sự thuyết phục để hướng dẫn quần chúng. Khối Cộng Sản quan  niệm một sự lãnh đạo căn cứ trên sự cưỡng bách để hướng dẫn quần chúng.  Khối thứ nhất chú trọng đến với trạng thái thăng bằng động tiến giữa  quyền lợi ngắn hạn của cá nhân trong tập thể và quyền lợi dài hạn của  tập thể, bởi vì lý do của đời sống là một sự việc của cá nhân mà điều kiện của đời sống, là một điều kiện tập thể. Khối  thứ nhì chỉ chú trọng đến quyền lợi dài hạn của tập thể bởi vì, trong  một giai đoạn lịch sử, các nhà lãnh đạo tin rằng sự sống còn của tập thể  bị đe dọa và đòi hỏi sự hoàn toàn hy sinh các quyền lợi cá nhân cho tập  thể. Một điều mà chúng ta nên ghi nhớ là sự lựa chọn quan niệm lãnh đạo  này hay quan niệm lãnh đạo kia đều do những sự kiện lịch sử thực tế  quyết định chớ không phải do những quan điểm triết lý trừu tượng. 
Trong  một giai đoạn nào đó của lịch sử một dân tộc, sự thăng bằng động tiến  giữa những quyền lợi cá nhân và quyền lợi tập thể bị phá vỡ, bởi những  yếu tố kích thích hoặc nội bộ hoặc bên ngoài đưa đến. Thăng bằng bị phá  vỡ, đời sông của tập thể tiếp tục trên những căn bản giả tạo cho đến khi  nào thăng bằng động tiến được tái lập. 
Quan niệm lãnh đạo. 
Chúng  ta đã biết là ngay trong những thời kỳ bình thường của cộng đồng, duy  trì trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi ngắn hạn cá nhân của  các phần tử của cộng đồng và quyền lợi dài hạn của cộng đồng, đã là một  công việc rất khó khăn, đòi hỏi một sự lãnh đạo nhiều sáng suốt, nhiều  khéo léo và thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng. Sự phát  triển của cộng đồng sẽ được bảo đảm nếu những nỗ lực duy trì trạng thái  thăng bằng động tiến thành công. 
Trong những thời kỳ khủng hoảng  của cộng đồng, trạng thái thăng bằng động tiến chẳng những ở vào một  trạng thái bấp bênh gia tăng mà lại còn bị đe dọa phá vỡ bởi những yếu  tố khuynh đảo do hoàn cảnh lịch sử tạo nên. Sự tiến hóa của cộng đồng bị  ngưng trệ. Nếu chúng ta lại lấy hình ảnh của hệ thống người cỡi xe đạp  và xe đạp trên kia, thì những thời kỳ khủng hoảng của cộng đồng tương  đương với những lúc mà tốc độ của hệ thống giảm đi vì những lý do nội bộ  của hệ thống: xe đạp bỗng ngừng hoặc người cỡi đã mệt mỏi, hay vì những  lý do bên ngoài: tình trạng của con đường hoặc sự lưu thông trở nên khó  khăn. Dầu sao, vì những lý do ngoài ý muốn của hệ thống, thăng bằng của  hệ thống bị đe dọa và hệ thống sắp ngã. 
Các yếu tố khuynh đảo trạng  thái thăng bằng động tiến có thể phát sinh từ trong nội bộ, ví dụ những  cuộc xáo trộn mà Tây phương phải đương đầu, khi chính mình vừa phát  minh những kỹ thuật sản xuất kỹ nghệ. 
Các yếu tố khuynh đảo có thể  từ bên ngoài đưa đến, ví dụ những cuộc ngoại xâm mà nước Tàu đã dành cho  chúng ta trong tám thế kỷ liên tiếp. Nghĩa là từ ngày lập quốc, trạng  thái thăng bằng động tiến của xã hội chúng ta lúc nào cũng bị sự đe dọa  phá vỡ bởi một cuộc xâm lăng của nước Tàu. Do đó, sự tiến hóa trong lịch  sử đã qua, của dân tộc chúng ta không hùng mạnh và chưa được vượt lên  đến trình độ sáng tạo, góp phần vào văn minh nhân loại. Và tình trạng  nặng nề ấy sẽ mãi mãi đè nặng và kìm hãm sự phát triển của dân tộc cho  tới ngày nào mà chúng ta, như Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ đã nuôi ý  chí, tiêu diệt được sự đe dọa xâm lăng của Trung Hoa. 
Các yếu tố  khuynh đảo có thể đồng thời vừa từ bên ngoài đưa đến, vừa phát sinh từ  trong nội bộ, ví dụ như cuộc tấn công của Tây phương vào các quốc gia  của xã hội Đông Á bắt buộc các quốc gia này phải vừa đương đầu với Tây  phương, vừa Tây phương hóa các cơ cấu xã hội của mình. 
Đương nhiên  là trường hợp thứ ba này là trình độ trầm trọng nhất mà các cuộc khủng  hoảng của một cộng đồng có thể đạt tới. Trong hoàn cảnh đó, sự duy trì  trạng thái thăng bằng động tiến, hoặc sự tái lập một trạng thái thăng  bằng động tiến đã bị phá vỡ, đòi hỏi một sự lãnh đạo phi thường. Nếu một  sự lãnh đạo tương tự không có, cộng đồng bất hạnh, sẽ bị ngưng trệ  trong sự tiến hóa, hoặc miễn cưỡng tiếp tục một sự tiến hóa phiến diện,  chỉ chú trọng đến một vài khía cạnh của toàn bộ vấn đề cần phải giải  quyết của cộng đồng, nhưng đòi hỏi một sự tiêu hao vô bờ bến đối với  sinh lực của cộng đồng, và lưu lại những hậu quả tai hại nặng nề cho  nhiều thế hệ trong tương lai. Tất cả các cuộc cách mạng đẫm máu, kể cả  cuộc cách mạng của Pháp năm 1789 và của Nga năm 1917, đều thuộc vào  trạng thái thăng bằng động tiến được tái lập. Sau cách mạng 1789, mãi  cho đến sau chiến tranh Pháp-Đức năm 1870, nước Pháp mới tái lập được  trạng thái thăng bằng động tiến đã mất. Sau cách mạng 1917, mãi đến ngày  nay, nước Nga vẫn chưa tái lập lại được trạng thái thăng bằng động tiến  đã mất. 
Trong hình ảnh hệ thống người cỡi và xe đạp, sự trạng thái  thăng bằng động tiến bị phá vỡ tương đương với sự mất thăng băng của  người cỡi. Cộng đồng tiếp tục một sự tiến hóa miễn cưỡng trên những căn  bản giả tạo, phí phạm nhiều sinh lực để thâu thập những thành quả phiến  diện, cũng tương đương với người cỡi xe đạp gắng sức đẩy chiếc xe đạp  không còn dùng được, để đưa toàn bộ hệ thống người và xe vượt một đoạn  đường. Kết quả thâu thập được không tương đương với sự phí sức rất  nhiều, bởi vì một trạng thái thăng bằng sống đã được thay thế bằng một  trạng thái thăng bằng chết. 
Nước Anh và nước Mỹ là những cộng đồng  quốc gia điển hình, nhờ một sự lãnh đạo sáng suốt, đã chiến thắng được  những yếu tố khuynh đảo phát sinh từ nội bộ cũng như bên ngoài đưa vào,  nhưng trong những thời kỳ khác nhau, và duy trì trạng thái thăng bằng  động tiến cho xã hội trong nhiều thế kỷ. Nguồn gốc chính yếu của sức  mạnh hiện tại của hai cường quốc trên là sự kiện đó. 
Nước Pháp và  nước Đức là hai quốc gia khác, trong xã hội Tây phương, cũng đã phải  đương đầu với những cuộc khủng hoảng đồng loại với những cuộc khủng  hoảng của hai quốc gia Anh và Mỹ. Cả hai nước Pháp và Đức đều thắng được  các yếu tố nội bộ mà không thắng được các yếu tố ngoại lai. Trạng thái  thăng bằng động tiến bị phá vỡ trong một thời gian ngắn nhưng đã được  tái lập. Tuy nhiên sự lãnh đạo quốc gia vẫn còn chịu ảnh hưởng của một  sự gián đoạn trầm trọng. 
Nước Nhật là một quốc gia điển hình, nhờ  một sự lãnh đạo phi thường, đã thắng được những yếu tố khuynh đảo vừa  nội bộ vừa bên ngoài, cùng lúc tác động đồng thời, và duy trì trạng thái  thăng bằng động tiến mặc dầu xã hội phải thay thế nhiều giá trị tiêu  chuẩn. 
Nước Nga là một quốc gia ngoài xã hội Tây phương, đã phải ứng  phó với một cuộc khủng hoảng đồng loại với cuộc khủng hoảng của Nhật.  Nhưng các nhà lãnh đạo Nga đã thắng được các yếu tố bên ngoài mà không  thắng được các yếu tố nội bộ. Vì những biện pháp áp dụng để đương đầu  với cuộc khủng hoảng đã phá vỡ trạng thái thăng bằng động tiến của xã  hội, và đặt ra những căn bản giả tạo cho một sự tiến hóa phiến diện. Và  ngày nay, sau gần nửa thế kỷ chính quyền độc tài đảng trị khủng khiếp  của Cộng Sản, trạng thái thăng bằng động tiến của xã hội Nga vẫn chưa  tái lập. 
Chúng ta đã thấy trong các giai đoạn trên, hai sự kiện  chứng minh cho điều này. Trước hết là các nhà lãnh đạo Nga Sô đang lần  lần và một cách dè dặt thay thế các giá trị tiêu chuẩn chiến lược giai  đoạn, và đương nhiên giả tạo bằng những giá trị chiến lược khác thích  nghi với di sản tinh thần của văn minh nhân loại, mục đích để tái lập  trạng thái thăng bằng động tiến của xã hội, đã bị cách mạng phá vỡ. Sự  kiện thứ hai là bộ máy lãnh đạo của Nga Sô, căn cứ trên những tiêu chuẩn  giả tạo của chế độ độc tài đảng trị, đương nhiên bất lực trong sự  chuyển quyền điều hòa mỗi khi cần phải thay đổi người lãnh đạo. 
Như  các đoạn trên đã trình bày, cộng đồng quốc gia Việt Nam đang ở trong một  thời kỳ khủng hoảng đồng loại với những khủng hoảng trước đây của Nhật  và của Nga. Cuộc khủng hoảng của Việt Nam lại còn trầm trọng hơn vì  những yếu tố khuynh đảo nội bộ phát sinh từ thời gian gần một thế kỷ  thuộc Pháp và những yếu tố khuynh đảo bên ngoài do cuộc tranh chấp giữa  Tây phương và Cộng Sản đưa đến. Vì vậy cho nên, quan niệm lãnh đạo dẫn  dắt đến hình thức chính thể, rất quan trọng cho sự bảo vệ trạng thái  thăng bằng động tiến cho cộng đồng trong những thời kỳ bình thường, càng  trở nên vô cùng thiết yêu trong một thời kỳ khủng hoảng như của chúng  ta hiện nay. 
Trong trường hợp Việt Nam, không thể đặt vấn đề quan  niệm lãnh đạo và chính thể mà không đề cập đến vấn đề Cộng Sản được, vì  chính là nhân danh quan niệm lãnh đạo Cộng Sản mà cuộc tương tàn đã diễn  ra trên mảnh đất này từ hai mươi năm nay. 
Vì những lý do nào mà có  một số người lãnh đạo chủ trương rằng quan niệm lãnh đạo Cộng Sản thích  nghi cho hoàn cảnh khủng hoảng của cộng đồng dân tộc Việt Nam hiện nay? 
Trước  hết chúng ta sẽ nhắc lại, trong một cái nhìn bao quát, những điều đã  được rải rác trình bày trong các phần trên, liên quan đến sự phát sinh  của thuyết Cộng Sản ở Âu châu, đến các điều kiện đã biến một lý thuyết,  do Tây phương tạo ra, thành một lợi khí của Nga Sô để chống lại Tây  phương và đến hoàn cảnh lịch sử nhờ đó thuyết Cộng Sản được nhập cảng  vào Á châu và vào Việt Nam. Sau đó, chúng ta sẽ nhắc lại những kết quả  phân tích sự kiện lịch sử, cũng rải rác trong các phần trên, khả dĩ giúp  cho chúng ta vượt trên các yếu tố phức tạp đã dệt thành hoàn cảnh hiện  tại của Cộng đồng dân tộc, suy luận để nhìn thấy và tìm xem những lý do,  đã khiến cho quan niệm lãnh đạo Cộng Sản xâm nhập chính trường Việt  Nam, có một giá trị như thế nào, đối với quyền lợi của dân tộc, trong  một giai đoạn quyết định như giai đoạn này. 
Thuyết Cộng Sản phát sinh. 
Sau  khi khoa học Tây phương đã phát minh những kỹ thuật sản xuất kỹ nghệ,  thì những lực lượng mới này đã làm cho hệ thống phân phối tài sản quốc  gia của xã hội Tây phương đương thời, tổ chức trên căn bản thủ công nghệ  và nông nghiệp, không còn hiệu lực nữa. Vì vậy cho nên những cuộc xáo  trộn chấn động liên tiếp đã làm lung lay đến tận nền tảng các cơ cấu xã  hội Tây phương. Các yếu tố khuynh đảo nội bộ phá hoại cơ thể và gây cho  xã hội Tây phương một cơn bệnh trầm trọng. 
Nhiều giải pháp được đề  nghị, trong đó giải pháp xây dựng trên một công trình nghiên cứu thực tế  lịch sử chính xác và phong phú, và được quần chúng hưởng ứng vì đã phát  sinh từ những căn bản quan sát thiết thực đối với tình trạng xã hội  đương thời. Giải pháp này chủ trương thay đổi, bằng một cuộc cách mạng  bạo động kiểu 1789 của Pháp, hoàn toàn các cơ cấu của xã hội cũ, tiếp  nhận những giá trị tiêu chuẩn mới, để xây dựng một xã hội mới thích nghi  với các lực lượng sản xuất kỹ nghệ, trong đó sự phân phối tài sản của  cộng đồng sẽ được thực hiện một cách hợp lý. Những mục tiêu đề ra, đương  nhiên có một mãnh lực hấp dẫn cao độ đối với quần chúng, vì hứa hẹn  nhiều sự bảo đảm cho quyền lợi ngắn hạn của cá nhân. 
Tuy nhiên, các  nhà lãnh đạo Tây phương đã đủ sáng suốt để nhìn thấy rằng giải pháp Cộng  Sản chỉ chú trọng đến các khuyết điểm cần chỉnh đốn của xã hội Tây  phương lúc bấy giờ, và do đó đã phủ nhận các giá trị tiêu chuẩn đã trở  thành di sản của văn minh nhân loại, và thay thế bằng những giá trị tiêu  chuẩn giả tạo, kết quả của một công trình suy luận lý thuyết, tuy có  phong phú nhưng vẫn là của con người trong một thế hệ. Vì nhược điểm đó  cho nên phương thuốc đề nghị để chữa bệnh cho xã hội Tây phương, thay vì  có hiệu lực của một linh dược, sẽ trở thành một độc dược chẳng những  phá hoại nền tảng của xã hội còn hơn cả chứng bệnh lúc bấy giờ, mà lại  còn có thể tiêu diệt tất cả di sản của văn minh nhân loại trong mấy  nghìn năm. 
Vì quyền lợi dài hạn của cộng đồng, các nhà lãnh đạo Tây  phương đã từ chối một phương thuốc độc hại, và vừa nỗ lực tìm những  phương thuốc khác cho xã hội Tây phương, vừa chiến đấu ác liệt để loại  trừ một độc dược đã lợi dụng một thời kỳ khủng hoảng của cộng đồng, xâm  nhập vào cơ thể xã hội. Và ngày nay, trong công cuộc này, sự thành công  của Tây phương đã rõ rệt. Tây phương đã tìm được những phương pháp khả  dĩ giúp cho xã hội thâu nhận được những lực lượng sản xuất mới mà vẫn  duy trì được trạng thái thăng bằng động tiến. Và đương nhiên, khi xã hội  đã lành mạnh, quần chúng Tây phương cũng không còn hưởng ứng thuyết  Cộng Sản nữa, vì nhu cầu không còn nữa, đối với một phương thuốc đã được  đề nghị như là một linh dược, để trị một chứng bệnh đã lành. Sự phát  triển hùng mạnh của xã hội Tây phương ngày nay là một bằng cớ hiển nhiên  và hùng biện. 
Thuyết Cộng Sản biến thành lợi khí của nước Nga. 
Chúng  ta còn nhớ rằng giữa Nga và Tây phương có một cuộc chiến đấu trường kỳ  đã kéo dài từ nhiều thế kỷ. Và từ khi công cuộc Tây phương hóa nước Nga  thành công, dưới thời Đại Đế Pierre cho đến phân nửa đầu của thế kỷ 19,  thắng thế đã ngã về Nga. Và quân lực và ngoại giao của Nga đã nhiều lần  đóng một vai trò quyết định trên chính trường Âu Châu. Nhưng cuộc cách  mạng kỹ nghệ của Tây phương vào thời kỳ phân nửa sau của thế kỷ 19, đã  đưa kỹ thuật của Tây phương vượt hẳn kỹ thuật của Nga và làm nghiêng cán  cân lực lượng về Tây phương một lần nữa. Sự thua kém Tây phương về kỹ  thuật càng rõ rệt, sau khi quân lực của Nga, năm 1905 bị thảm hại trước  quân lực của Nhật, một quốc gia ngoài xã hội Tây phương vừa thực hiện  xong giai đoạn đầu của công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương  hóa. 
Như thế, vào thời kỳ vài chục năm đầu của thế kỷ 20, vấn đề  đặt ra cho các nhà lãnh đạo Nga rất minh bạch. Những sự kiện lịch sử  nghiêm khắc đặt các nhà lãnh đạo này vào một tình thế bắt buộc họ phải  tái bản công trình Tây phương hóa nước Nga của Đại Đế Pierre để bảo đảm  tương lai của dân tộc. Tuy nhiên, những kinh nghiệm đã qua trong cuộc  chiến đấu trường kỳ với Tây phương, cũng như trình độ phát triển đại quy  mô của kỹ thuật Tây phương lúc bấy giờ, tất cả các yếu tố đó, đều đòi  hỏi cho công cuộc Tây phương hóa kỳ này, ở các nhà lãnh đạo, một kế  hoạch toàn diện, đại quy mô, tương xứng với hoàn cảnh lịch sử và vị trí  quốc tế của nước Nga, cũng như những phương tiện vĩ đại, để huy động  toàn lực của dân tộc. Như thế, vấn đề đã rõ rệt, cuộc cách mạng năm 1917  của Nga biểu lộ ý chí của các nhà lãnh đạo Nga, đạt một mục đích dân  tộc: phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa. 
Sở dĩ mục đích thật sự và dân tộc của cuộc  Cách mạng Nga năm 1917 bị hoàn toàn che lấp dưới cái áo quốc tế của  cuộc cách mạng xã hội thế giới, mà các nhà lãnh đạo Nga Sô tuyên bố chủ  trương để đánh đổ Tư Bản Chủ Nghĩa, là vì, trong lần Tây phương hóa này,  ngoài những kỹ thuật vật chất của Tây phương, nước Nga, với một thâm ý  chiến lược vô cùng sắc bén, đã thâu nhận làm lợi khí tranh đấu một lý  thuyết, sản phẩm tinh thần của Tây phương mà Tây phương đã từ bỏ: thuyết  Cộng Sản. Ngày nay chúng ta cũng đang mục kích, Trung Cộng tái diễn tấn  tuồng phất cờ cách mạng xã hội thế giới chống Đế quốc để tạo hoàn cảnh  thuận lợi phục vụ công cuộc phát triển dân tộc riêng của nước Tàu. 
Chúng  ta đã nhận định, trong một đoạn trên, những sự kiện nào đã dẫn dắt các  nhà lãnh đạo Nga Sô đến chỗ thâu nhận một chủ nghĩa, ngoại lai, như Chủ  Nghĩa Cộng Sản, hoàn toàn chống lại truyền thống văn minh của dân tộc  Nga. 
Trước hết, các nhà lãnh đạo Nga Sô, ý thức hoàn cảnh nghiêm  khắc của công cuộc phát triển của Nga. Công cuộc phát triển này, cũng  như công cuộc phát triển của Trung Cộng ngày nay, đương nhiên sẽ gây ra  nhiều phản ứng thù nghịch. Vì vậy cho nên sử dụng được những biện pháp  huy động quần chúng đến mức tối đa, đối với họ là một nhu cầu thiết yếu.  Quan niệm lãnh đạo Độc tài đảng trị của thuyết Cộng Sản đáp ứng vào nhu  cầu nói trên. 
Các cuộc xáo trộn xã hội, vào thời kỳ đó ở Tây  phương, là những sự kiện tự nó hùng biện, chứng minh rằng xã hội Tây  phương lúc bấy giờ, không thích nghi với các lực lượng sản xuất mới. Xã  hội Nga, vào cùng một thời kỳ, lại còn lạc hậu hơn xã hội Tây phương,  thì đương nhiên sẽ không thích nghi với các lực lượng sản xuất mới mà  công cuộc phát triển dân tộc bắt buộc sẽ thâu nhận. Như thế thì, tổ chức  xã hội Nga theo kiểu mẫu xã hội mà thuyết Cộng Sản đề nghị chẳng những  là có tác dụng thích nghi hóa xã hội này với các lực lượng sản xuất mới,  mà lại còn là, trong con mắt các nhà lãnh đạo Nga Sô, đi trước Tây  phương một đoạn đường, nghĩa là đã thắng Tây phương trên phương diện tổ  chức xã hội. 
Điều bất ngờ cho các nhà lãnh đạo Cộng Sản ngày nay là,  Tây phương lấy đức tính chính xác của kỹ thuật khoa học, thám cứu các  biểu lộ, thực tế của đời sống, đã tìm được và thực hiện được một hình  thức xã hội thích nghi với các lực lượng sản xuất mới. Trong khi đó, xã  hội Nga Sô tổ chức theo kiểu mẫu của xã hội Cộng Sản, chỉ căn cứ trên  kết quả suy luận lý thuyết của những bộ óc, tuy là khác thường, nhưng  vẫn là của con người còn đang mò mẫm tìm trạng thái thăng bằng cần thiết  cho cộng đồng. Sự kiện Nga Sô đang lần lần thay đổi các giá trị tiêu  chuẩn càng xác nhận căn bản lý thuyết và giả tạo của kiểu mẫu xã hội  Cộng Sản. 
Các cuộc xáo trộn xã hội ở Tây phương lúc bấy giờ còn bộc  lộ ma lực hấp dẫn của thuyết Cộng Sản đối với quần chúng Tây phương. Các  nhà lãnh đạo cuộc cách mạng Nga Sô năm 1917 đương nhiên nhìn thấy thực  trạng chính trị đó. 
Và trong khuôn khổ cuộc chiến đấu ác liệt giữa  Nga và Tây phương, sự Nga thâu nhận lý thuyết Cộng Sản làm lý thuyết  tranh đấu, đương nhiên sẽ biến quần chúng Tây phương thành những đồng  minh cho Nga, nội tuyến ngay trong lòng địch. Trong thực tể, các đảng  Cộng Sản địa phương trong các quốc gia Tây phương, đều đã đóng, ít hay  nhiều, vai trò đồng minh nội tuyến cho Nga Sô. 
Chúng ta vừa nhận xét  các sự kiện phát sinh từ tình trạng nội bộ của Tây phương và của Nga,  đã biến lý thuyết Cộng Sản của Tây phương, thành trong tay Nga Sô một  thứ khí giới tinh thần sắc bén, hơn cả bất cứ thứ khí giới kỹ thuật tối  tân nào của Tây phương đã phát minh, khả dĩ giúp cho Nga Sô tấn công  hiệu quả Tây phương, vừa từ bên ngoài vào, vừa trong nội bộ phát ra. 
Thuyết Cộng Sản nhập cảng vào Á Châu và Việt Nam. 
Tuy  nhiên, đối với nhà lãnh đạo Nga Sô, thuyết Cộng Sản còn là một lợi khí  tranh đấu, có một tác dụng không kém hiệu lực trong một phạm vi khác của  cuộc tranh đấu vĩ đại giữa Nga Sô và Tây phương. 
Như chúng ta đã  thấy trong một đoạn trên, khi giai đoạn hiện tại của cuộc tranh đấu giữa  Nga Sô và Tây phương mở màn, vị trí của Tây phương rất là hùng mạnh.  Tây phương đã chinh phục gần hết thế giới, thuộc địa của Tây phương nằm  khắp các lục địa và các đại dương. Quân lực của Tây phương trấn cứ các  yếu điểm chiến lược trên địa cầu, kỹ thuật của Tây phương đã vượt đến  một cao độ đáng sợ và khắc phục được một cái đà phát triển vừa vững chắc  vừa nhiều sinh lực. Trước một địch thủ, mà khả năng và uy thế đã bao  trùm thế giới, vượt xa khỏi địch thủ thời Đại Đế Pierre, đương nhiên các  nhà lãnh đạo Nga không thể mong chiến thắng bằng một chiến lược cổ  truyền giới hạn trong phạm vi quốc gia. Nhu cầu chiến lược bắt buộc các  nhà lãnh đạo Nga Sô đưa khuôn khổ của cuộc chiến đấu lên đến ranh giới  hoàn cầu, nếu họ muốn tránh cho Nga một cuộc bao vây ác nghiệt và một  thảm bại ngay lúc chưa ra quân. 
Vì vậy cho nên, Nga Sô đã sử dụng lý  thuyết Cộng Sản làm một tín hiệu tập hợp, khả dĩ qui tụ trong một mặt  trận quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Nga Sô, tất cả các kẻ thù của Tây  phương lúc bấy giờ trên thế giới, để làm hậu thuẫn cho Nga Sô. Trong  cuộc chiến đấu vĩ đại chống Tây phương, mà mục đích vẫn là công cuộc  phát triển cho dân tộc Nga. 
Chúng ta có thể so sánh những nỗ lực lúc  bấy giờ của Nga Sô với những nỗ lực hiện tại của Trung Cộng, để thành  lập một mặt trận quốc tế qui tụ các quốc gia chưa mở mang để hậu thuẫn  cho công cuộc phát triển cho dân tộc Tàu. 
Tuy nhiên, mưu toan của  Nga Sô để qui tụ các kẻ thù lúc bấy giờ của Tây phương là một việc.  Nhưng sự hưởng ứng của các quốc gia đã bị Tây phương tấn công và biến  làm thuộc địa hay bán thuộc địa là một việc khác. Vậy, vì những lý do  nào mà các nước này hưởng ứng lời kêu gọi và qui tụ dưới sự lãnh đạo của  Nga Sô? 
Lúc bấy giờ, đã từ hơn bốn trăm năm Tây phương đã tấn công  hầu hết các quốc gia ngoài xã hội Tây phương và đã từ gần một trăm năm  đã chinh phục hầu hết thế giới. Các quốc gia bị tấn công, sau khi đã hết  sức mình kháng chiến trong nhiều thế hệ, lần lần đã đi đến chỗ phải  nhìn nhận tính cách vô hiệu quả của cuộc chiến đấu giữa những lực lượng  vô cùng chênh lệch. Vận dụng toàn diện khả năng nghinh chiến của một  quốc gia để chống lại một ké thù đã bao vây thế giới là một chiến cuộc  không có hy vọng thành công. Vì thế cho nên, đối với các nhà lãnh đạo  của quốc gia đã bị chinh phục, lời kêu gọi đồng minh của Nga Sô có hiệu  lực mở một lối đi cho một tình thế đã bế tắc. Đồng minh với Nga Sô là  đưa cuộc chiến đấu giải thoát quốc gia lên cương vị một cuộc chiến đấu  quốc tế có nhiều khả năng bảo đảm cho sự thành công. 
Tác dụng của lý thuyết Cộng Sản. 
Như  thế thì, chính là điều kiện gian lao của một cuộc chiến đấu giành độc  lập đã đưa một số các nhà lãnh đạo các quốc gia Á châu bị Tây phương  chinh phục, đến chỗ đồng minh với Cộng Sản. Và nhà lãnh đạo Cộng Sản của  Việt Nam cũng ở vào trường hợp đó. 
Tuy nhiên, có nhiều nhà lãnh đạo  Á châu mà quốc gia cũng đã bị Tây phương chinh phục, đã sáng suốt nhìn  thấy, vừa thâm ý chiến lược của Nga Sô, vận dụng một mặt trận quốc tế để  hậu thuẫn cho công cuộc phát triển của dân tộc Nga, vừa những căn bản  giả tạo của thuyết Cộng Sản, đã từ chối một sự đồng minh với Nga Sô trên  nguyên tắc qui phục lý thuyết Cộng Sản. Cân nhắc lợi hại, các nhà lãnh  đạo này, đã quyết định chọn một con đường khác hơn con đường Cộng Sản,  trong công cuộc tranh giành độc lập và sau đó trong công cuộc phát triển  dân tộc. Các biến cố lịch sử sau Đại Thế Chiến thứ hai, mà chúng ta đã  có nhắc đến, xác nhận quan điểm sáng suốt của những nhà lãnh đạo như  Gandhi và Nehru của Ấn Độ. 
Ấn Độ và nhiều quốc gia khác ở Á châu, và  ngoài Á châu đã khai thác mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương để thâu  hồi độc lập hoàn toàn, một cách không tiêu hao cho sinh lực dân tộc. Và  chúng ta đã thấy một đoạn trên, rằng chính là sự đồng minh với Cộng Sản  của một số nhà lãnh đạo của chúng ta, đã làm cho công cuộc tranh giành  độc lập của chúng ta trở thành vô cùng tiêu hao cho sinh lực của dân  tộc. Những sự hy sinh cao cả của các phần tử của cộng đồng không bao giờ  phủ nhận được, cũng như không phủ nhận được tính kiêu hùng của dân tộc  trong các cuộc chiến đấu ác liệt với kẻ thù. 
Tuy nhiên, các nhà lãnh  đạo lúc nào cũng phải tự đặt cho mình nghiêm luật không bao giờ có  quyền phí phạm sinh lực của cộng đồng, mỗi khi quyền lợi của cộng đồng  bắt buộc phải sử dụng đến. 
Vả lại, độc lập vẫn chưa phải là mục  đích. Và sinh lực của dân tộc còn cần thiết hơn bội phần cho công cuộc  phát triển đang chờ đợi chúng ta. Và lý do thứ nhì để cho các nhà lãnh  đạo các quốc gia Á châu thâu nhận thuyết Cộng Sản do Nga Sô chủ trương  lại chính là công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa sau  khi độc lập đã được thâu hồi. 
Thuyết Cộng Sản quả quyết rằng chỉ có  phương pháp độc tài đảng trị mới có đủ khả năng huy động quần chúng để  cung cấp những nỗ lực cần thiết cho một công cuộc phát triển cộng đồng.  Và thuyết Cộng Sản cũng quả quyết rằng chỉ có xã hội tổ chức theo kiểu  của thuyết Cộng Sản đề nghị mới thích nghi với các lực lượng sản xuất  của kỹ nghệ. Vậy thì mọi công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây  phương hóa phải áp dụng phương pháp độc tài Đảng trị và phải xây dựng xã  hội theo kiểu mẫu Cộng Sản. 
Chúng ta đã phân tích, với chi tiết,  tác dụng của thuyết Cộng Sản, trong giai đoạn chiến đấu giành độc lập đã  qua, của chúng ta, đối với sự thống trị của đế quốc. Đối với sự chi  phối và thống trị của nước Tàu, đã đè nặng lên đời sống của dân tộc  trong hơn tám trăm năm, gián đoạn trong một trăm năm, ngày nay lại tái  hiện và đe dọa hơn bao giờ, chúng ta cũng đã vạch rõ những hậu quả tai  hại, mà sự qui phục thuyết Cộng Sản, của các nhà lãnh đạo Bắc Việt, sẽ  lưu lại cho thế hệ tương lai. Một điều mà chúng ta phải ghi nhớ, trong  khuôn khổ của vấn đề quan trọng này, liên quan mật thiết đến vận mạng  của dân tộc, là thâm ý chiến lược của Nga Sô trước đây và thâm ý chiến  lược đồng loại của Trung Cộng ngày nay. Đối với hai quốc gia này, thuyết  Cộng Sản và các mặt trận quốc tế phục vụ cho thuyết Cộng Sản, đều là  những lợi khí sắc bén để phục vụ, trước hết và trên hết, mục đích phát  triển dân tộc của hai nước. 
Trong phạm vi phát triển dân tộc, chúng  ta đã thấy rằng nếu hoàn cảnh phát triển vô cùng nghiêm khắc của những  quốc gia to lớn, như Nga và Tàu, thuyết minh cho một sự đổi những kết  quả, mà phương pháp độc tài Đảng trị có thể mang đến trong hiện tại, với  những hậu quả tai hại, chưa ai biết đến mức độ nào, mà chính phương  pháp đó sẽ lưu lại cho nhiều thế hệ trong tương lai, thì trái lại, một  nước nhỏ như Việt Nam, có thể thực hiện được công cuộc phát triển của  mình bằng những phương pháp không tiêu hao sinh lực của dân tộc. Đã như  thế thì, các nhà lãnh đạo tranh đấu cho dân tộc, đương nhiên phải chọn  đường lối dẫn đến mục đích mà không phí phạm sinh lực của cộng đồng. 
Sau  hết, câu hỏi đặt ra cho chúng ta là: xã hội tổ chức theo kiểu mẫu Cộng  Sản có phải là xã hội thích nghi nhất với các lực lượng sản xuất mới do  kỹ thuật khoa học phát minh không? Tôn trọng một thái độ mà chúng ta đã  chấp nhận từ đầu, chúng ta sẽ tự ý không đi vào một cuộc tranh luận lý  thuyết về tính cách thích nghi hay không thích nghi của xã hội Cộng Sản  đối với các lực lượng sản xuất mới; Vả lại, thời gian hãy còn quá sớm để  cho chúng ta có thể, căn cứ trên những sự kiện thực tế, phán đoán về  tính cách thích nghi nói trên. Trong thế giới hiện nay, chưa có một xã  hội nào, đã kỹ nghệ hóa được tổ chức theo kiểu mẫu Cộng Sản, để chúng ta  có thể lấy đó làm tiêu chuẩn so sánh. Và kiểu mẫu này vẫn là một kết  quả suy luận lý thuyết. 
Tuy nhiên, những nhận xét dưới đây, đối với các sự kiện thực tế mà chúng ta đang mục kích, có thể làm sáng tỏ vấn đề. 
Trong  thế giới hiện tại, hình thức tổ chức xã hội gần nhất với kiểu mẫu của  thuyết Cộng Sản, đương nhiên là hình thức tổ chức xã hội của Nga Sô.  Chúng ta đã thấy trong nhiều đoạn trên, rằng bộ máy lãnh đạo của Nga Sô  vẫn bất lực trong việc chuyển quyền ôn hòa mỗi khi cần phải thay đổi  người lãnh đạo. Sau gần nửa thế kỷ, những biện pháp độc tài vẫn còn cần  thiết để duy trì trật tự chứng tỏ rằng trạng thái thăng bằng nội bộ vẫn  chưa tái lập. Về phương diện xã hội, sự Nga Sô đang thay thế nhiều tiêu  chuẩn giá trị bằng những tiêu chuẩn giá trị mà thuyết Cộng Sản đã loại  bỏ, lại chứng tỏ rằng Nga Sô còn đang nỗ lực tái lập trạng thái thăng  bằng nội bộ cần thiết cho sự phát triển của cộng đồng. Một mặt khác, sự  thay thế các giá trị tiêu chuẩn Cộng Sản, bằng những giá trị tiêu chuẩn  được phục hồi, lại chứng tỏ tính cách lý thuyết của các căn bản của  thuyết Cộng Sản. Tất cả các sự kiện trên lại chứng tỏ rằng xã hội Nga Sô  hiện nay vẫn tiếp tục một tình trạng thăng bằng giả tạo. 
Trong khi  đó, xã hội Tây phương, vì bất lực trong công việc thâu nhận các lực  lượng sản xuất mới, hồi thế kỷ 19, nên đã được đề nghị thay thế bằng xã  hội Cộng Sản, chẳng những đã tìm được những phương pháp khả dĩ cho phép  sự thâu nhận được lực lượng sản xuất mới, mà lại còn duy trì trạng thái  thăng bằng động tiến cho cộng đồng. Và nhờ đó mà sự phát triển hùng mạnh  vẫn được bảo đảm. Hình thức xã hội Cộng Sản là một kết quả suy luận lý  thuyết, khi được mang đưa áp dụng ở Nga Sô, đã chứng tỏ không thích nghi  với thực tế, nên đã đặt các nhà lãnh đạo Nga Sô ngày nay vào những lối  bế tắc, lúng túng mà chúng ta đã biết. Hình thức hiện nay của xã hội Tây  phương là kết quả của một cuộc thám cứu, bằng lý trí chính xác của kỹ  thuật khoa học Tây phương, những biểu lộ thực tế của đời sống. Vì thế  cho nên hình thức xã hội này thích nghi với thực tề. 
Nhưng ngoài Tây  phương, cũng có nhiều hình thức xã hội khác, không tổ chức theo kiểu  mẫu Cộng Sản, vẫn thích nghi với những lực lượng sản xuất mới đã thâu  nhận sau một công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa. 
Sinh lực dồi dào của xã hội Nhật ngày nay là một bằng chứng hùng biện. 
Các  sự kiện thực tế trên đây, tuy không trực tiếp liên quan đến tính cách  thích nghi hay không của xã hội Cộng Sản đối với các lực lượng sản xuất  mới, nhưng vì những thực trạng mà nó phản ảnh, đã làm cho câu hỏi nêu  lên trên đối với xã hội Cộng Sản trở thành vô ích. 
Phản tác dụng. 
Như  thế thì, vấn đề đã rõ, trong trường hợp của cộng đồng quốc gia Việt  Nam, những tác dụng mong mỏi ở thuyết Cộng Sản, khả dĩ thuyết minh cho  sự qui phục của các nhà lãnh đạo Bắc Việt, đối với lý thuyết này, trở  thành vô hiệu lực. Ngược lại, như chúng ta đã thấy ở nhiều đoạn trên,  một sự qui phục thuyết Cộng Sản sẽ mang đến nhiều phản tác dụng tai hại  cho dân tộc. 
Tất cả các sự kiện mà chúng ta đã phân tích trong các  trang của tập sách này, đều chứng minh rằng mục đích cuối cùng của mọi  cuộc tranh đấu, là quyền lợi của dân tộc. Nga Sô cũng như Trung Cộng khi  nỗ lực, lập những mặt trận quốc tế phục vụ cách mạng xã hội thế giới,  đều có chủ định phục vụ trước hết và trên hết dân tộc Nga và dân tộc  Tàu. 
Sự qui phục thuyết Cộng Sản sẽ đương nhiên, biến sự đe dọa, thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam, thành thực tế. 
Chúng  ta đã biết chính sách xâm lăng của Trung Hoa đối với Việt Nam là một  chính sách liên tục và bất biến của tất cả các chế độ của Trung Hoa vì  nó phát sinh từ một nhu cầu đất đai cần thiết cho sự phát triển của  Trung Hoa. Mang phương pháp độc tài Đảng trị của Cộng Sản, cũng như  phương pháp độc tài nào khác để lãnh đạo quần chúng, thì theo một cơ  thức mà chúng ta đã biết, quần chúng sẽ phản ứng bằng cách hướng về bất  cứ cá nhân hay tập thể nào phất cờ giải phóng để che đậy thâm ý xâm lăng  của mình. Trong điều kiện đó, các nhà lãnh đạo Cộng Sản áp dụng phương  pháp độc tài đảng trị ở Việt Nam, sẽ đương nhiên tạo hoàn cảnh thuận lợi  cho Trung Cộng xâm chiếm Việt Nam lúc thời cơ đưa đến. 
Nói một cách  khác, phương pháp lãnh đạo độc tài Đảng trị sẽ suy nhược hóa sức đề  kháng của dân tộc đối với kẻ xâm lăng. Hùng mạnh như nước Nga, mà trong  trận chiến chống quân Đức, cũng đã suýt phải thảm bại, bởi vì quần chúng  phẫn uất với chế độ độc tài Đảng trị của Staline, đã nổi lên đồng minh  với Đức. Chỉ có sự vụng về và chính sách kỳ thị chủng tộc của Đức quốc  xã mới không khai thác được cơ hội trên, và cứu Nga Sô khỏi họa xâm  lăng. 
Trong tình thế chính trị chúng ta đang mục kích, sự qui phục  thuyết Cộng Sản của các nhà lãnh đạo Bắc Việt, tự nó là một sự thần phục  Trung Cộng, như các triều đại xưa của chúng ta thần phục Trung Hoa. Và  sự thống trị bằng lý thuyết của Trung Cộng đối với Bắc Việt ngày nay,  nếu không có các trở lực quốc tế, sẽ bội phần ác nghiệt hơn các sự thống  trị mà nước Tàu đã dành cho chúng ta từ gần một ngàn năm. 
Sự qui  phục thuyết Cộng Sản sẽ đương nhiên gắn liền vận mạng công cuộc phát  triển dân tộc của chúng ta vào vận mạng công cuộc phát triển dân tộc của  Trung Hoa. Chúng ta đã phân tích hoàn cảnh phát triển thuận lợi của  Việt Nam. 
Vậy gắn liền công cuộc phát triển của Việt Nam vào công  cuộc phát triển của Trung Cộng là bỏ một hoàn cảnh thuận lợi để đi rước  một hoàn cảnh vô cùng khó khăn. 
Mặc dầu các nỗ lực vĩ đại, cuộc phát  triển của Trung Cộng khó mà thành công. Như vậy, gắn liền công cuộc  phát triển của Việt Nam vào công cuộc phát triển của Trung Cộng có nghĩa  là chúng ta tự ý bỏ công cuộc phát triển của chúng ta. Trong công cuộc  phát triển bằng cách Tây phương hóa hiện nay mà các dân tộc đều nỗ lực  thực hiện, chúng ta có những điều kiện vật chất lẫn tinh thần, để thành  công hơn Trung Cộng, như chúng ta đã chứng minh trong một đoạn trên. Nếu  chúng ta lại bỏ cơ hội này để thần phục Trung Cộng thì, một là chúng ta  sẽ không phát triển được bởi vì Trung Cộng không phát triển được, hai  là Trung Cộng phát triển được, thì chúng ta sẽ phát triển được đến mức  hạng ba hay hạng nhì, vì chúng ta học lại kỹ thuật của một người đi học  kỹ thuật của Tây phương. 
Sau hết, trong hơn một ngàn năm từ ngày lập  quốc, sự chi phối của Trung Hoa đối với Việt Nam nặng nề cho đến đỗi  tâm lý thuộc quốc bao trùm mọi lĩnh vực đời sống của dân tộc. Tâm lý đó  bắt nguồn từ hai sự kiện: tự ty mặc cảm đối với Trung Hoa vĩ đại, và sự  lệ thuộc của chúng ta đối với văn hóa Tàu. Tình thế ngày nay là một cơ  hội duy nhất để cho chúng ta thực hiện ý chí, của Lý Thường Kiệt và  Nguyễn Huệ, cởi cái ách tâm lý thuộc quốc cho dân tộc. Nếu chúng ta lỡ  cơ hội, sự lệ thuộc của dân tộc đối với Trung Hoa sẽ kéo dài nhiều ngàn  năm nữa và cái khối Trung Hoa vĩ đại, của các lãnh tụ Cộng Sản, sẽ mang  đến cho dân tộc cái họa diệt vong. Và sự qui phục thuyết Cộng Sản sẽ  đương nhiên dọn đường cho dân tộc Việt Nam lệ thuộc văn hóa mới của  Trung Cộng. Những lời ca tụng Trung Hoa vĩ đại của miền Bắc, những điệu  nhạc âm thanh Trung Cộng của đài phát thanh Hà Nội, những điệu vũ hòa  bình, và những y phục theo Tàu, tất cả các sự kiện đó, đều là những biểu  lộ thiết thực của một sự lệ thuộc văn hóa càng ngày càng sâu đậm của  miền Bắc đối với Trung Cộng, bởi vì các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt  đã chấp nhận một sự lệ thuộc tư tưởng. 
Chỉ nghĩ đến cái viễn ảnh  ngàn năm lệ thuộc Trung Cộng mà các nhà lãnh đạo Cộng Sản miền Bắc đang  sửa soạn cho dân tộc, chúng ta cũng phải khiếp đảm, thoáng nhìn vận mạng  cực kỳ đen tối cho các thế hệ tương lai. 
Trong vấn đề quan niệm  lãnh đạo, chúng ta không thể dành cho quan niệm lãnh đạo Cộng Sản, ít  chỗ hơn như chúng ta vừa làm xong. Bởi vì, như chúng ta đều biết, hiện  nay chủ nghĩa này đang hoành hành ở Á châu, để phục vụ sự phát triển của  dân tộc Tàu, với một cường độ độc hại không kém gì cường độ độc hại của  nó ở Âu châu, hồi cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, để phục vụ cho sự  phát triển của dân tộc Nga, và chính ở Việt Nam, vì chủ nghĩa Cộng Sản  hoạt động mà cuộc chiến đấu giành độc lập của chúng ta đã vô cùng tiêu  hao sinh lực dân tộc, mà xảy ra tình trạng chia đôi đất nước, mà chiến  tranh tàn phá cái vốn nhân lực và tài nguyên của chúng ta từ hai mươi  năm nay. 
Và khi nào như hiện nay, chúng ta đã nhìn thấy nguồn gốc  của chủ nghĩa Cộng Sản, nhìn thấy những nguyên nhân sâu xa của sức mạnh  của nó, nhìn thấy những điểm tựa trên đó nó đang lấy sinh lực ở Á châu,  nhìn thấy lý do vì sao nó đã bắt đầu suy nhược ở Tây phương và nhìn thấy  những hậu quả tai hại nó sẽ mang đến cho dân tộc Việt Nam, thì chúng ta  mới nhìn thấy, một cách minh bạch, trách nhiệm của thế hệ chúng ta là  phải vận dụng tất cả nỗ lực, mà chúng có thể cung cấp, để loại trừ độc  dược đó ra ngoài cơ thể của cộng đồng dân tộc.
| Kỳ Trước | Kỳ Sau |